Tiểu luận Kinh tế công - Độc quyền xăng dầu

_MỤC LỤC_ _ _

 

I. ĐỘC QUYỀN. 2

1. Khái niệm độc quyền: 2

2. Tại sao có tình trạng độc quyền: 2

3. Nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền: 3

4. Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền thường gây ra: 4

II. SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU. 5

1. Thị phần thị trường xăng dầu Việt Nam: 5

2. Cơ chế quản lý của nhà nước: 5

III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM. 7

1. Công thức tính giá xăng dầu ở Việt Nam: 7

2. Sự định giá của các doanh nghiệp xăng dầu Việt Nam: 9

3. Lợi ích - thiệt hại? 11

4. Những vấn đề bất cập: 12

IV. TỔNG KẾT. 14

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3752 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kinh tế công - Độc quyền xăng dầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độc quyền bán nhưng tương tự như độc quyền bán cũng có độc quyền mua - một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn tại một người mua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong trường hợp độc quyền mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua sản phẩm từ những người bán. Doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong trường hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao hơn và mua yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền mua vì nó sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một vài yếu tố đầu vào của nó có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào không duy nhất thì doanh nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh giá các yếu tố đầu vào nếu nó có quy mô lớn. 2. Tại sao có tình trạng độc quyền: Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một nhóm các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Khái niệm độc quyền hiểu theo nghĩa hẹp là việc chiếm lĩnh thị trường của một công ty. Thị trường độc quyền là thị trường không có sự cạnh tranh do đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là mức giá cao hơn và sản phẩm chất lượng thấp hơn. Độc quyền là một ví dụ điển hình khi nhắc tới chủ nghĩa tư bản. Phần lớn mọi người đều tin rằng thị trường sẽ không hoạt động nếu chỉ có một người duy nhất cung cấp hàng hoá và dịch vụ vì họ sẽ không có động lực để tự hoàn thiện và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên độc quyền sẽ vẫn tồn tại vì sẽ vẫn có nhu cầu về loại hàng hoá dịch vụ đó. Ví dụ như trên thị trường có sự độc quyền về mặt hàng xăng dầu. Cho dù giá xăng có đắt và chất lượng không tốt thì bạn sẽ vẫn phải mua nó vì bạn vẫn cần phải đi lại, các công ty vẫn cần nhiên liệu để đốt, để vận hành máy móc, và ngoài ra còn rất nhiều hoạt động cần dùng đến xăng dầu. Vì độc quyền có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế và gây thiệt hại cho xã hội nên chính phủ luôn nỗ lực để ngăn ngừa độc quyền bằng các đạo luật chống độc quyền. Tất nhiên độc quyền cũng có ưu điểm trong một số lĩnh vực, ví dụ như việc cấp bằng cho phát minh mới. Việc cấp các bằng phát minh sáng chế sẽ tạo ra sự độc quyền đối với sản phẩm trí tuệ đó trong một thời hạn nhất định. Lý do của việc cấp bằng là giúp cho người phát minh có thể bù đắp được khoản chi phí lớn mà anh ta đã bỏ ra để thực hiện phát minh sáng chế của mình. Về mặt lý thuyết thì đây là một cách sử dụng độc quyền để khuyến khích phát minh. Một ví dụ khác về độc quyền đó là độc quyền của nhà nước, trong đó nhà nước độc quyền cung cấp một số loại hàng hoá dịch vụ nhất định. Tuy nhiên để độc quyền nhà nước thật sự có hiệu quả thì nó phải cung cấp các hàng hoá và dịch vụ như điện, nước...ở một mức giá mà người dân có thể chịu được. 3. Nguyên nhân chính dẫn đến độc quyền: Chính phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó: chính quyền địa phương có thể nhượng quyền khai thác khoáng sản cho một công ty nào đó hay nhà nước tạo ra cơ chế độc quyền nhà nước cho một công ty. Nếu chi phí vận chuyển quá cao, thị trường có thể bị giới hạn trong một khu vực địa lý nào đó và nếu trong khu vực đó có một doanh nghiệp cung cấp sản phẩm thì sẽ dẫn đến tình trạng gần như độc quyền. Chế độ bản quyền đối với phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ: một mặt chế độ này khuyến khích những phát minh, sáng chế nhưng mặt khác nó tạo cho người nắm giữ bản quyền có thể giữ được vị trí độc quyền trong thời hạn được giữ bản quyền theo quy định của luật pháp. Do sở hữu được một nguồn lực rất khan hiếm: điều này giúp cho người nắm giữ có vị trí gần như độc quyền trên thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí gần như độc quyền trên thị trường kim cương. 4. Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền thường gây ra: Do tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở mức sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng với doanh thu biên thay vì sản xuất ở mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm bằng chi phí biên như trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm không phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng độc quyền giá bán sẽ giảm xuống khi doanh nghiệp độc quyền tăng sản lượng. Vì thế doanh thu biên sẽ nhỏ hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp độc quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền nhỏ hơn giá bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm được không đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích biên bằng chi phí biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng giảm sút trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do độc quyền. II. SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU. 1. Thị phần thị trường xăng dầu Việt Nam: Xăng dầu là mặt hàng vật tư thiết yếu và mang tính chiến lược đối với sự phát triển của đất nước, thuộc độc quyền Nhà nước. Nhà nước Việt Nam thực hiện độc quyền của mình đối với xuất nhập khẩu xăng dầu thông qua quản lý quyền trực tiếp xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và quy định hạn ngạch nhập khẩu. Trên cơ sở cân đối nhu cầu xăng dầu hàng năm của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước giao hạn ngạch nhập khẩu cho 11 doanh nghiệp đầu mối, nhưng ở đây nhóm 6 chỉ đề cập đến một vài doanh nghiệp trong ngành. a. Petrolimex: Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam là tổ chức kinh doanh thương mại xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu tại khâu hạ nguồn lớn nhất ở Việt Nam. Kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực kinh doanh chủ đạo của Petrolimex. Hàng năm, Tổng công ty nhập khẩu 7-8 triệu m3 xăng dầu, chiếm khoảng 60% thị phần nội địa. Doanh thu xăng dầu trung bình năm đạt trên 25.000 tỷ đồng, chiếm 80% tổng doanh thu toàn ngành. Phục vụ cho hoạt động kinh doanh, Petrolimex có hệ thống kho bể với sức chứa trên 1.200.000 m3 được phân bổ dọc theo chiều dài đất nước đảm bảo cho dự trữ và cung ứng xăng dầu theo nhu cầu của thị trường như: Tổng kho Xăng dầu Đức Giang (Hà Nội), Thượng Lý (HảI Phòng), Tổng kho Xăng dầu Nhà Bè (thành phố Hồ Chí Minh), Cụm kho Xăng dầu miền Trung (Phú Khánh - Bình Định - Đà Nẵng - Nghệ An), miền Tây Nam bộ, Cụm kho xăng dầu B12 (Quảng Ninh)... b. Comeco: Công ty Cổ phần Vật tư-Xăng dầu, được hình thành từ Phòng quản lý xăng dầu thuộc Sở Giao thông Vận tải TP HCM. Hiện nay, COMECO đã có 29 cửa hàng xăng dầu, tăng 10 cửa hàng so với năm 2000. Sau khi Nhà nước mở cửa cho các công ty kinh doanh xăng dầu nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh, COMECO đã chủ động đầu tư xây dựng Tổng kho xăng dầu tại Nhơn Trạch-Đồng Nai với diện tích 20 ha, sức chứa giai đoạn 1 trên 40.400m3 và cầu cảng 25.000 DWT. Đến nay, COMECO đã thực hiện xong việc san lấp mặt bằng giai đoạn 1. Trong quý 1/2008 vừa qua, Comeco đã đạt 695 tỷ đồng doanh thu, tăng 231,3 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế đạt 5 tỷ đồng, tăng 920 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2007. Quý I/2009 COMECO đã đạt được kết quả sản xuất kinh doanh khả quan: LN sau thuế đạt 44,8% kế hoạch năm 2009 và tăng 156,78% so với cùng kỳ. Nhiên liệu được công ty nhập khẩu từ các thị trường quốc tế lớn như: Singapore, Trung Quốc… c. Mipeco: Công ty xăng dầu Quân Đội được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 2003, theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 0103003405 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp. Nhà máy dầu mỡ nhờn trên khu đất diện tích 19.000 m2 tại số 4 Bạch Đằng - Hải Phòng, với công suất 15.000 tấn dầu nhờn/năm và 2.000 tấn mỡ/năm và hệ thống công nghệ pha chế xăng RON 83 tại kho K99 - Đông Hải - Hải An – Hải Phòng; đảm bảo sản xuất, pha chế các sản phẩm dầu mỡ nhờn và xăng RON 83 cung cấp cho các đơn vị trong toàn quân. d. Vinapco: Công ty Xăng dầu hàng không được thành lập theo quyết định số 768/QĐ-TCCBLĐ ngày 22 tháng 4 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và chính thức đi vào hoạt động tháng 7 năm 1993. Đến ngày 9 tháng 6 năm 1994, Công ty thành lập lại theo quyết định số 847/QĐ-TCCBLĐ của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và được giao chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp các sản phẩm hóa dầu. Với đội ngũ trên 1.000 cán bộ công nhân viên được đào tạo, Công ty Xăng dầu hàng không Việt Nam là nhà cung ứng nhiên liệu hàng đầu cho các hãng hàng không tại các sân bay dân dụng Việt Nam. Nhiên liệu được công ty nhập khẩu từ các thị trường quốc tế lớn như : Singapore, Trung Quốc… Hiện công ty đã có 03 phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025:2005 với 11 phép thử tiêu chuẩn. 2. Cơ chế quản lý của nhà nước: Ngày 6.4.2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 55/2007/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu để thay thế cho Quyết định 187/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng ban hành năm 2003 về cơ chế kinh doanh xăng, dầu..., với tinh thần cơ bản là đảm bảo chính sách an ninh năng lượng, đảm bảo cho giá xăng dầu sát với mặt bằng giá thế giới. Theo Nghị định 55/2007/NĐ-CP, các DN xăng dầu được tự quyết định giá bán xăng theo cơ chế thị trường, trên cơ sở giá thế giới, thuế nhập khẩu, các chi phí đầu vào... đảm bảo đúng quy định của Nhà nước, lợi nhuận hợp lý để tái đầu tư, phát triển sản xuất và các hoạt động kinh doanh của DN. Nhà nước chỉ quản lý gián tiếp bằng các quy định về điều kiện kinh doanh xăng dầu; điều hòa cung cầu; mua, bán hàng dự trữ quốc gia và thực hiện kiểm soát các yếu tố hình thành giá khi có dấu hiệu liên kết độc quyền về giá hay đầ cơ nâng giá. III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM. 1. Công thức tính giá xăng dầu ở Việt Nam: Cơ cấu hình thành giá xăng bao gồm 35% thuế nhập khẩu xăng, 10% thuế tiêu thụ đặc biệt, 10% thuế giá trị gia tăng, trích 1.000 đồng/lít để trả nợ Ngân sách tạm ứng bù lỗ, trích 1.000 đồng phí xăng, chi phí kinh doanh 500 đồng /lít, lợi nhuận định mức là 150 đồng/lít, trích lập Quỹ bình ổn giá là 500 đồng/lít và trả chi phí hoa hồng cho đại lý bán lẻ xăng dầu là 580 đồng/lít. Với cơ cấu này, nếu như giá dầu thô là 50 USD/thùng thì giá xăng trên 11.900 đồng/lít, nếu giá dầu thô là 40 USD thì giá xăng là 10.300 đồng /lít, giá dầu thô 35 USD thì mức giá xăng tương ứng vào khoảng 9.400 đồng/lít và giá dầu thô 30 USD thì giá xăng khoảng 8.600 đồng/lít. Như vậy, doanh nghiệp nhập dầu thô được các giá trên thì chắc chắn, các doanh nghiệp xăng dầu vẫn lãi ít nhất là 1.500 đồng/lít. Bảng: Các mức thuế nhập khẩu xăng dầu trong tương quan với giá xăng dầu thành phẩm. Xăng: Mức Giá Platt's * (USD/thùng) Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (%) Mức 1 Dưới 53USD 40 Mức 2 Từ 53 đến dưới 64 USD 35 Mức 3 Từ 64 đến dưới 75 USD 30 Mức 4 Từ 75 đến dưới 86 USD 25 Mức 5 Từ 86 đến dưới 97 USD 20 Mức 6 Từ 97 đến dưới 107 USD 15 Mức 7 Từ 107 đến dưới 118 USD 10 Mức 8 Từ 118 trở lên 5 Diezel: Mức Giá Platt's * (USD/thùng) Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (%) Mức 1 Dưới 48USD 30 Mức 2 Từ 48 đến dưới 60 USD 25 Mức 3 Từ 60 đến dưới 73 USD 25 Mức 4 Từ 73 đến dưới 85 USD 20 Mức 5 Từ 85 đến dưới 97 USD 15 Mức 6 Từ 97 đến dưới 109 USD 10 Mức 7 Từ 109 trở lên 5 Dầu hỏa Mức Giá Platt's * (USD/thùng) Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (%) Mức 1 Dưới 60 USD 40 Mức 2 Từ 60 đến dưới 73 USD 35 Mức 3 Từ 73 đến dưới 85 USD 30 Mức 4 Từ 85 đến dưới 97 USD 25 Mức 5 Từ 97 đến dưới 109 USD 20 Mức 6 Từ 109 đến dưới 121 USD 15 Mức 7 Từ 121 đến dưới 133 USD 10 Mức 8 Từ 133 trở lên 5 * Giá giao hàng tại tàu ở Singapore theo chuẩn nhiên liệu Platts. 2. Sự định giá của các doanh nghiệp xăng dầu Việt Nam: Có thể trao quyền định giá xăng cho doanh nghiệp: Doanh nghiệp sẽ chủ động tính toán phương án và qui định giá bán theo cơ chế thị trường, bảo đảm giá xăng dầu được tính đúng, tính đủ giá vốn nhập khẩu, các loại thuế, phí theo luật định, bảo đảm chi phí kinh doanh và lợi nhuận hợp lý, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước không bù lỗ. Các hợp đồng mua bán với nước ngoài được ký trước một tháng hoặc quý, tùy thuộc vào năng lực kinh doanh của từng doanh nghiệp. Giá định hướng sẽ được các doanh nghiệp xây dựng ngay từ đầu năm căn cứ trên giá nhập khẩu, sau đó, đăng ký giá với Tổ giám sát xăng dầu Liên bộ Tài chính - Công Thương xem xét. Nếu được chấp nhận, mức giá này sẽ được giữ ổn định cho cả năm. Như vậy so với Quy chế 187 cũ, giá bán lẻ mặt hàng xăng dầu sẽ do Liên bộ Tài chính - Công Thương tự xây dựng và công bố. Trên cơ sở này, doanh nghiệp được đề xuất giá bán mới khi thị trường biến động, không vượt quá 10% đối với mặt hàng xăng và 5% đối với dầu. Còn theo quy chế mới này, giá bán định hướng cho năm 2008 sẽ do doanh nghiệp tự xây dựng và ban hành. Khi dầu thế giới tăng cao vượt giá định hướng, doanh nghiệp phải trích quỹ dự phòng ra để bình ổn. Trong trường hợp giá nhập khẩu vượt quá giá định hướng 10%, doanh nghiệp mới được đề xuất phương án tăng giá bán lẻ đối với mặt hàng xăng trong nước. Ngược lại khi dầu thế giới giảm so với giá định hướng trên 10%, doanh nghiệp phải giảm giá bán lẻ trong nước cho người tiêu dung. Bộ Tài chính cũng đề xuất phương án xây dựng quỹ "Dự trữ bình ổn giá bắt buộc" để có phương tiện giữ giá bán lẻ trong nước khi thị trường thế giới biến động. Khoản dự trữ này sẽ trích từ lãi mà doanh nghiệp được hưởng khi dầu thế giới giảm và được bù chéo cho các tháng lỗ khi dầu thế giới tăng cao. Sau 6 tháng, doanh nghiệp sẽ hạch toán lỗ lãi, các khoản tiền dôi dư từ quỹ sẽ được chuyển thành lợi nhuận doanh nghiệp. Nhà nước không thu lại mà chỉ tính thuế đối với khoản dự trữ theo đúng Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp với mức 28%. Nghị định 55 có hiệu lực từ 1/5 vừa qua cho phép doanh nghiệp được tự định giá bán theo thị trường. Doanh nghiệp chỉ cần thông báo cho Tổ giám sát Liên bộ Tài chính - Công Thương phương án điều chỉnh trước thời điểm ấn định khoảng một tuần. Tuy nhiên, sau nửa năm nhìn lại, Bộ Tài chính nhận thấy cách điều hành như vậy quá phức tạp và gây không ít vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn tại thời điểm tháng 8, khi giá dầu giảm xuống mức thấp nhất của tháng với 75 USD một thùng, dù Chính phủ nhiều lần yêu cầu giảm giá, song các doanh nghiệp vẫn "phớt lờ" với lý do chưa đủ bù lỗ. Bộ Tài chính đành áp dụng cơ chế bình ổn giá theo Pháp lệnh giá và buộc các doanh nghiệp kinh doanh giảm giá bán lẻ xăng A92 từ 11.800 xuống 11.300 đồng một lít. Người dân chưa kịp hưởng lợi từ đợt giảm giá thì đến giữa tháng 11, giá dầu vừa chạm ngưỡng 99 USD một thùng, doanh nghiệp đã có văn bản "thúc" Liên bộ được tăng giá bán. Sau một tuần cân nhắc, Liên bộ buộc phải cho phép doanh nghiệp được điều chỉnh. Bảng tổng hợp giá bán lẻ xăng từ năm 2005 đến 2007: Ngày  Giá dầu thế giới (USD)   Mogas 92 (đồng/lít)  3/7/2005   49,50   8.800 17/8/2005   63,25   10.000 22/11/2005   58,84   9.500 27/4/2006   70,97   11.000 9/8/2006   76,35   12.000 12/9/2006   63,76   11.000 6/10/2006   60,00  10.500 13/1/2007   52,00  10.100 6/3/2007  60,07  11.000  7/5/2007 66,46  11.800  16/8/2007 75,00  11.300 22/11/2007 99,00 13.000 3. Lợi ích - thiệt hại? a. Thiệt hại: Khi giá xăng tăng, thông thường người bán, người sản xuất sẽ được lợi. Nhưng đó là xét về cá biệt, còn xét về toàn thể gần như ai cũng bị thiệt hại. * Đối với người tiêu dùng: Điều dễ nhận thấy nhất là người tiêu dùng, bởi với cùng một số tiền chi ra nhưng cứ sau mỗi tháng lại mua được một lượng hàng ít hơn. Đặc biệt đối với người nghèo thì khó khăn cả về hai bề: thu nhập thực tế ngày càng trở nên nhỏ nhoi còn những mặt hàng tăng giá cao nhất lại là những mặt hàng thiết yếu, trong khi tỉ trọng chi tiêu của những mặt hàng này lớn gần gấp đôi tỉ trọng của những hộ giàu. * Đối với nhà nước: Nhà nước cũng bị thiệt hại ở cả hai lĩnh vực. Về lĩnh vực thu chi ngân sách, Nhà nước vừa phải giảm thu thuế nhập khẩu khi giá xăng dầu tăng cao vừa phải bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu; việc thu ngân sách từ các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do lợi nhuận của họ không tăng khi chi phí đầu vào tăng cao hơn giá sản phẩm đầu ra; giá tăng càng bức bách tạo sức ép tăng lương…Về lĩnh vực quản lí vĩ mô để chống lạm phát, cân đối thu chi ngân sách và các cân đối vĩ mô khác như: xuất nhập khẩu, chính sách tiền tệ…cũng hút vào đây nhiều nguồn lực cả về vật chất, thời gian và trí tuệ. * Đối với các doanh nghiệp: Khi giá xăng dầu thế giới tăng cao đột biến sẽ làm cho các doanh nghiệp nhập xăng với giá cao nhưng không thể tăng giá bán cho người tiêu dùng quá cao vì nếu tăng quá cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân. Do đó mà các doanh nghiệp phải bán với giá thấp và bị lỗ (mặc dù đã được nhà nước bù lỗ). Khi giá xăng sắp tăng, để đảm bảo thị trường cung ứng xăng dầu, các doanh nghiệp đầu mối phân phối xăng dầu sẽ bị lỗ do doanh nghiệp đầu mối mua vào với giá mới cao hơn trong khi các đại lí vẫn còn tồn đọng lại số lượng xăng với giá cũ thấp hơn đã được mua lúc giá xăng chưa tăng. Ngoài ra nó sẽ xảy ra hiện tượng các doanh nghiệp đầu mối hạn chế rót hàng cho đại lí và sẽ tác động đến nguồn cung ứng, các đại lí có thể lợi dụng đầu cơ lấy hàng nhiều lên để ăn lãi suất bất chính. Nhà nước không dồn lỗ cho các đại lí mà là các doanh nghiệp đầu mối. b. Lợi nhuận độc quyền: Hiện nay có khoảng 11 doanh nghiệp được trực tiếp nhập khẩu xăng dầu đều là của Nhà nước trong đó Petrolimex chiếm khoảng 60% thị phần. Đứng thứ 2 là PetroVietnam với 2 công ty thành viên là PDC và Petechim, kế tiếp là Petec thuộc Bộ Thương Mại và Saigon Petro của Ban tài chính quản trị thành ủy TP.HCM. Bốn doanh nghiệp lớn này đang chiếm khoảng 90% thị phần xăng dầu cả nước bởi vậy họ không cần phải cạnh tranh bằng cách hạ giá hay bán rẻ mà ngược lại họ lại thỏa thuận với nhau về mức giá bán chung trên thị trường xăng dầu nước ta. Chính vì thế mà lợi nhuận mà các doanh nghiệp này thu được là một con số khổng lồ không thể thống kê chính xác được. Mặt khác, khi giá xăng dầu thế giới tăng cao doanh nghiệp phải chịu lỗ nhưng đã được nhà nước bù lỗ còn khi giá xăng dầu thế giới giảm xuống thì các doanh nghiệp vẫn giữ mức giá cao như cũ (hoặc nếu có giảm giá thì cũng giảm rất ít không đáng kể), điều này dẫn đến lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp là rất lớn. 4. Những vấn đề bất cập: a. Tăng giảm giá xăng dầu chưa hợp lý: Theo cơ chế mới doanh nghiệp đã được tự định đoạt giá xăng dầu theo những biến động của thị trường thế giới nhưng các công ty kinh doanh xăng dầu chỉ điều chỉnh tăng giá còn khi giá thị trường thế giới giảm, giá xăng trong nước không hề được giảm , có giảm thì giảm nhỏ giọt, với lý lẽ tranh thủ “bù lỗ”. b. Bù lỗ: Theo số liệu kiểm toán, chỉ riêng Petrolimex, năm 2004 nhà nước cấp bù lỗ cho kinh doanh dầu hơn 3.000 tỷ đồng, năm 2005 hơn 5.480 tỷ đồng. Năm 2006, Petrolimex đề nghị cấp bù lỗ hơn 4.980 tỷ đồng nhưng Kiểm toán nhà nước xác định là hơn 4.940 tỷ đồng, giảm hơn 40 tỷ đồng so với báo cáo của đơn vị do điều chỉnh và phân bổ lại chi phí. Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết năm 2007, số tiền bù lỗ cho kinh doanh xăng dầu lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng. Năm nay, tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3, Thủ tướng đã quyết định sẵn sàng bù lỗ hàng ngàn tỷ đồng mỗi tháng nhằm góp phần kiềm chế lạm phát. Bộ Tài chính liên tục phải giảm thuế suất thuế nhập khẩu xăng dầu (hiện bằng 0), gây áp lực lên nguồn thu của nhà nước. Dù được ưu đãi như vậy nhưng doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nào cũng kêu lỗ, chậm được bù lỗ. c. Thiếu cạnh tranh bình đẳng: Ngay cơ chế bù lỗ xăng dầu cũng còn nhiều bất hợp lý. Theo tập quán, các doanh nghiệp thường có những quyền lợi nhất định trong những hợp đồng với nhà cung cấp nước ngoài (mức chênh lệch premium, chi phí vận chuyển, quan hệ cung cầu xăng dầu trên thế giới). Không phải doanh nghiệp nhập khẩu nào cũng nhập một giá như nhau vì còn tùy thuộc vào mức độ chặt chẽ khi đấu thầu. Do đó, lúc kiểm tra bù lỗ sẽ rất khó so sánh đơn giá nhập khẩu bình quân giữa các doanh nghiệp. Trong khâu xác định chi phí sẽ có doanh nghiệp tìm cách phân bổ vào những mặt hàng dầu các khoản như: áp dụng hình thức khấu hao nhanh, thu hồi vốn nhanh nhằm làm tăng số lỗ, tăng chi phí mua sắm, chi phí quà tặng, các khoản hoa hồng để thu hút khách hàng. Theo kết luận của Kiểm toán nhà nước, rất khó xác định được chính xác chi phí riêng cho các mặt hàng dầu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn Petrolimex đã phân bổ hơn 64 tỷ đồng vào chi phí phát sinh của mặt hàng dầu. Khi quyết toán mức cấp bù lỗ, nhà nước vẫn thực hiện theo hình thức cào bằng giữa các doanh nghiệp. Trong khi thực tế hiệu quả kinh doanh cũng như việc chấp hành quy định ở mỗi doanh nghiệp lại khác nhau. Chẳng hạn những doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc vấn đề tiết kiệm chi phí, xây dựng định mức hao hụt sát thực sẽ có mức chi phí thực tế khác với những doanh nghiệp lãng phí, sử dụng định mức hao hụt cao hơn. Khi đã chính thức vào WTO, Việt Nam cần thực hiện lộ trình điều chỉnh giá sát với thị trường. Nếu tiếp tục thực hiện cơ chế bù lỗ cho dầu hay kiềm hãm giá xăng thì sẽ tạo nên sự cạnh tranh thiếu bình đẳng. d. Xăng chất lượng thấp: Ngày 29-8-2006 Sở Khoa học - công nghệ TP.HCM đã xác định được có gần 10.000 tấn xăng loại A95 và A92 chứa aceton với hàm lượng rất cao được nhập vào VN qua cửa khẩu TP.HCM. Và đây chính là “thủ phạm” làm hư hỏng hàng loạt pôngtu (van điều tiết xăng) xe gắn máy thời gian qua. Tuy nhiên, tên của các công ty đã nhập loại xăng này không được công bố. Khi xăng dầu tăng giá, các doanh nghiệp (DN) kêu lỗ, người tiêu dùng đành chấp nhận việc tăng giá xăng vì quyền lợi của các DN. Nhưng khi các DN nhập xăng kém chất lượng, gây hư hỏng tài sản của người tiêu dùng, thì không thấy biện pháp nào dược áp dụng để xử lý các doanh nghiệp vi phạm , bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người tiêu dùng. Quyền lợi người tiêu dùng đã quá bị coi thường. Không ai biết hàng chục ngàn tấn xăng chứa aceton đã đi về đâu vì cơ quan chức năng cũng không thể kiểm soát nổi, còn người tiêu dùng thì bị bưng bít thông tin. Không thể tin nổi khi các DN nhập khẩu xăng dầu lại không có đủ phương tiện để kiểm tra mẫu xăng. Như thế thì bao nhiêu năm qua, người tiêu dùng đã phải chịu bao nhiêu là thiệt hại do chất lượng xăng kém. Nguyên nhân chính là do cơ chế độc quyền trong ngành siêu lợi nhuận này, cùng sự vô trách nhiệm của các cơ quan chức năng. 5. Một số biện pháp can thiệp: Định giá bằng chi phí trung bình: chính phủ quy định cho doanh nghiệp độc quyền định giá bằng đúng chi phí trung bình đã phân bổ hoàn toàn trên mỗi đơn vị sản phẩm (lấy toán bộ chi phí cố định và biến đổi chia cho tất cả sản phẩm). Cách này xóa bỏ hoàn toàn được lợi nhuận siêu ngạch của doanh nghiệp độc quyền và giảm được đáng kể tổn thất do độc quyền nhưng không loại trừ hoàn toàn được nó vì vẫn chưa đạt được mức sản lượng hiệu quả. Định giá bằng chi phí biên và bù đắp bằng thuế: chính phủ quy định cho doanh nghiệp độc quyền định giá bằng chi phí biên để đạt mức sản lượng hiệu quả rồi bù đắp lỗ (do chi phí biên thấp hơn chi phí bình quân) cho doanh nghiệp bằng một khoản thuế. Biện pháp này hoặc sẽ gây méo mó về giá cả nếu sử dụng loại thuế không phải thuế khoán hoặc sẽ làm người đóng thuế thắc mắc nếu áp dụng thuế khoán. Định giá hai phần: doanh nghiệp độc quyền sẽ định giá gồm hai phần: phần thứ nhất là phí cố định để được quyền sử dụng sản phẩm , dịch vụ, mức phí này bằng chênh lệch giữa chi phí trung bình và chi phí biên; phần thứ hai tính theo mỗi đơn vị sản phẩm, dịch vụ mà người tiêu dùng tiêu thụ, mức phí này đúng bằng chi phí biên. Tuy nhiên vấn đề của biện pháp này là khoản phí để được quyền sử dụng dịch vụ sẽ làm người tiêu dùng suy tính và do đó làm cho mức tiêu dùng thực tế thấp hơn mức hiệu quả. IV. TỔNG KẾT. Có thể nhận thấy được rằng xét trên khía cạnh giá cả, cơ chế thị trường và cơ chế độc quyền tạo nên hai xu hướng đối lập nhau. Trong khi đó với xăng dầu, hay một số ngành độc quyền khác, người tiêu dùng hầu như không được thụ hưởng chiều hướng giảm giá. Trong môi trường cạnh tranh, áp dụng cơ chế thị trường, doanh nghiệp không đặt giá đúng, tự họ sẽ triệt tiêu năng lực cạnh tranh đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp mình. Trong khi đó, với cơ chế độc quyền, doanh nghiệp có quyền áp đặt từ sản lượng tới giá thành mà người tiêu dùng phải chấp nhận. Độc quyền còn cho phép doanh nghiệp độc quyền ép giá các nhà đầu tư khác. Các doanh nghiệp luôn dựa vào cấu trúc thị trường để tăng giá khác nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKinh tế công- độc quyền xăng dầu.doc
  • ppt5 DOC QUYEN XANG DAU.PPT
Tài liệu liên quan