Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có 3 loại hình sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các loại hình sở hữu này đã hình thành nên các thành phần kinh tế. Để các loại hình kinh tế này hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số giải pháp sau đối với các thành phần kinh tế.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
+ Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng kết quả không tồn tại một cách thụ động
Tất nhiên và ngẫu nhiên :
+ Tất nhiên là cái do bản chất , do những nguyên nhân bên trong của sự vật , hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế.
+ Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất bên trong quyết định mà là do ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra bên ngoài thông qua cái ngẫu nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình qua vô số cái ngẫu nhiên .
II. Cơ sở thực tế
1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Đây là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả là xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh . Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội , một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ , nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ lương thực vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư , tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng , nhiêud xí nghiệp sử dụng công xuất ở mức thấp . Chênh lệch lớn giữa thu và chi tài chính , giữa xuất khẩu và nhập khẩu . Thị trường và vật giá không ổn định , số người lao động chưa được sử dụng còn đông , đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn .
Thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới :
Sau 10 năm thực hiện cải cách kinh tế kinh tế việt nam đã có những bước chuyển biến đáng khích lệ như :
Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định
+ GDP tăng hàng năm 3,9% (Trong thời kỳ 1986-1990) và 8,2% (Thời kỳ 1991-1995)
+ Nông nghiệp tăng 4,5%; công nghiệp tăng 13,5%; kim nghạch xuất khẩu tăng 20% trong thời kỳ 1991-1995
+ Sản lượng lương thực tăng nhanh 21,5 triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu tấn (1995)
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ
+ Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP đã tăng từ 22,6% (1990) lên 30,3% (1995)
+ Tỷ trong dịch vụ từ 38,6% lên 42,5%
+ Tỷ trong nông nghiệp giảm từ 40,6% xuống 36,2%
+ Tỷ trọng kinh tế quốc doạnh trong GDP từ 29,4% lên 40,4%
Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát.
Trong những năm 1986-1988 nạn lạm phát đã giảm từ 3 con số xuống còn 2 con số (Riêng năm 1993 xuống 1 con số), trong khi tăng trưởng kinh tế khá cao.
Đời sống nhân dân
Một bộ phận dân có mức sống khá, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 55% (1989) xuống còn 19,9% (1993).
Những thành tựu kinh tế- xã hội đã đạt được là kết quả của đường lối đổi mới do đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó cũng là sự phù hợp giữa ý đảng và lòng dân.
Phần II: Nội dung nghiên cứu
Nền kinh tế thi trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường
Đất nước ta hiện nay đang ở trong thời kỳquá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà tồn tại cả những thành phần xã hội cũ và xã hội mới. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong thời kỳ này thì lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đố sẽ hình thành nên nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, tạo ra nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất. Các thành phần kinh tế này tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh.
Nguyên nhân của việc xuất hiện các thành phần kinh tểtong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là do tính đa dạng về sở hữu tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế sở hữu tư nhân bằng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, mở đường cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất là tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu vì:
Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (gần 40 triệu lao động), cần cù, thông minh song số người chưa có việc làm còn nhiều, gây lãng phí sức lao động.
Trình độ lao động của ta hiện nay chưa cao. Lao động chủ yếu vẫn là lao động chân tay.
Do đố, việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Nó cũng phù hợp với yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay.
II. Vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế
1. Thành phần kinh tế nhà nước
ở nước ta, nó ra đời do nhà nước đầu tư xây dựng và dokết quả của công cuộc cải tạo hoà bình, công thương nghiệp tư bản… Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước làm nền tảng. Nó bao gồm: Các nguồn lực vật chất (nguồn tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, bảo hiểm, dự trữ quốc gia, tài chính, tín dụng, kho bạc… và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do nhà nước làm chủ.
Do thành phần kinh tế nhà nước nắm các cơ sở quan trọng nhất của nền kinh tế, là chỗ dựa kinh tế của nhà nước, định hướng nền kinh tế đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nướcgiữ một vai trò rất quan trọng trong các thành phần kinh tế của các nhà nước ta hiện nay.
2. Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Những người lao động góp vốn vào làm ăn tập thể dưới các hình thức là các hợp tác xã. Sự hình thành của kinh tế tập thể phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội hiện nay là hợp tác kinh doanh cùng có lợi. Đây là sự phát triển tất yếu của xã hội. Nhưng nó lại là sự xuất hiện ngẫu nhiên của một cá nhân nào đó đứng ra thành lập hợp tác xã. Cá nhân này sẽ đi kêu gọi, vận động mọi người tham gia vào hợp tác xã của mình dưới hình thức đóng góp về vốn và sức lực. Lợi ích của các xã viên sẽ được hưởng theo cổ phần đóng góp và sức lao động bỏ ra. Sự hình thành hợp tác sẽ mang tính tất yếu vì: Trong xã hội hiện nay có một bộ phận nông dân có tích luỹ được một số vốn. Nhưng số vốn đó còn quá nhỏ để mở một loại hình kinh doanh (thành lập hợp tác xã), trong khi đó họ lại muốn số tiền tích luỹ của mình có thể được lưu động và sinh lãi. Do đó sự xuất hiện của hợp tác xã sẽ tạo điều kiện cho họ tham gia.
Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ
Thành phần kinh tế nay dựa trênchế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của chính bản thân họ. Nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nênkinh tế cá thể và tiểu chủ của nước ta còn chiếm một tỷ trọng lớn ở trong nền kinh tế: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán và dịch vụ nhỏ cá thể. Tác dụng của thành phần kinh tế nàylà vận dụng được mọi năng lực sản xuất, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Thành phần kinh tế này từng bước được đi vào con đường làm ăn tập thể, dưới các hình thức hợp tác xã hoặc trở thành vệ tinh cho các thành phần kinh tế khác…
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Dựa trên sở hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân được tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Đối với nước ta, thành phần kinh tế này được phát triển trong những nghành nghề mà pháp luật cho phép. Vai trò và tác dụng của nó là: tận dụng được vốn, kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý của nhà tư bản, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế này ra đời do sự liên doanh liên kết nhà nước với tư bản tư nhân ở trong nước cũng như tư bản ở nước ngoài vào làm ăn ở nước ta. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức như: các doanh nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần…
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài
Thành phần kinh tế này dựa trên vốn đầu tư 100% vốn của nước ngoài vào nước ta thông qua đầu tư trực tiếp. Đối với nước ta thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng trong thành phần kinh tế quá độ vì nó chiếm trên 10% GDP, hơn 20% thu nhập ngân sách và khoảng 30% kim nghạch xuất nhập khẩu.
III. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Tính thống nhất
Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần đều góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có độc lập tương đối và có bản chất riêng nhưng hoạt động kinh doanh trong môi trường chung, cùng chịu tác động của các nhân tố, các quy luật thị trường. Đồng thời các thành phần kinh tế tác động với nhau cả tích cực và tiêu cực. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần dẫn đến sự tồn tại của các giai cấp hoặc các tầng lớp khác nhau. Tổng hợp toàn bộ các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xẫ hội- giai cấp.
Sự mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là kinh tế tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là không thể điều hoà.
Tóm lại, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm cho các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá, đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại, phát triển. Đồng thời, các thành phần kinh tế cần được bình dẳng trên mọi phương diện.
IV. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa người với người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng.Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kì.
Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả.
Tuy nhiên, không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi kinh tế thị trường làm cho con người ta tha hoá, biến con người thành nô lệ của đồng tiền, kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên phẩm chất, văn hoá, đạo đức, luân lý…
Ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo, tệ nạn ma tuý, cờ bạc, mại dâm, hối lộ, tham nhũng…
Kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt của mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh kinh tế thị trường vừa tạo ra điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố nguy hại cho con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của đảng, bằng sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
V. Giải pháp khắc phục khó khăn trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay có 3 loại hình sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các loại hình sở hữu này đã hình thành nên các thành phần kinh tế. Để các loại hình kinh tế này hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số giải pháp sau đối với các thành phần kinh tế.
Thành phần kinh tế nhà nước:
+ Phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
+ Các doanh nghiệp nhà nước giữ vững những vị trí then chốt, phải đi đầu trong việc ứng dụng tién bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động.
+ Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là phương thức đầu tư vốn của nhà nước cho các doanh nghiệp. Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Đổi mới cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước và theo hướng xoá bao cấp, cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trách nhiệm, nộp đủ thuế và có lãi.
Thành phần kinh tế tập thể:
+ Khuyến khích phát triển với nhiều hình thức hợp tácđa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt
+ Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa nghành hoặc chuyên nghành
+ Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ.
+ Khuyến khích tích luỹ phát triển vốn của hợp tác xã
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
+ Có vị trí quan trọng, lâu dài cả ở nông thôn và thành thị
+ Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ và phát triển
+ Khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
+ Khuyến khích phát triển rộng rãi trong các nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm.
+ Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để phát triển trên những hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài
+ Chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doang liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước:
+ Phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
+ Tôn trọng lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
+ Thành phần này bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước ta.
+ Tạo điều kiện phát triển thuận lợi, tập chung hướng vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
+ Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài
+ Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế, người trong nước và nước ngoài
+ Phát triển hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dựng rộng rãi vốn đầu tư xã hội
+ Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn cụ thể
Với những biện pháp cải tiến như trên thì đảng và nhà nước ta đã đưa ra một số chỉ tiêu kinh tế từ nay đến năm 2005 là:
Tổng GDP năm 2005 tăng gấp 2 lần năm 1995, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5%; trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng4,3%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%; dịch vụ tăng 7,5%
Giá trị sản xuất tăng hàng năm: nông, lâm, ngư nghiệp là 4,8%; công nghiệp 13%; dịch vụ 7,5%
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16% năm.
+ Đến 2005 cơ cấu các nghành trong GDP là: nông, lâm, ngư nghiệp 20-21%, công nghiệp và xây dựng 38-39%, dịch vụ 41-42%, cơ cấu lao động tương ứng là: 56-57%; 20-21%; 23-24%
Thương nghiệp quốc doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Như chúng ta đã biết, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm xuất hiện phân công lao dộng xã hội, đưa đến một tất yếu có sự trao đổi hàng hoá (H-H). Phân công lao động xã hội phát triển và chế độ tư hữu ra đời đã thúc đẩy trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng, dẫn đến hình thành tiền tệ cùng với nó là lưu thông hàng hoá (H-T-H).
Chuyên môn hoá trong sản xuất phát triển, khối lượng sản phẩm đem ra trao đổi ngày càng tăng, sinh ra nhu cầu chuyên môn hoá việc lưu thông hàng hoá. Một số người hoặc tổ chức tách ra khỏi việc sản xuất, chuyển sang hoạt động chuyên ứng tiền ra mua hàng hoá để bán lại nhằm mục đích thu lợi nhuận từ việc mua bán này tức là làm nghề kinh doanh hàng hoá hay hoạt động thương mại. Nghành thương mại ra đời là nấc thang phát triển kế tiếp, cao hơn của lưu thông hàng hoá, là kết quả trực tiếp của sự phát triển lưu thông hàng hoá. Đó chính là một nghành kinh tế quốc dân thuộc khu vực sản xuất vật chất nhưng không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mà có chức năng phục vụ lưu thông hàng hoá thông qua việc trao đổi sản phẩm dưới hình thức mua bán.
Đối với nước ta, một nước đang phát triển vào loại nghèo của thế giới lại trải qua một chặng đường lịch sử rất phức tạp, đặc biệt là hiện nay, khi chùng ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường thì lĩnh vực thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chuyển dịch và đổi mới kinh tế theo hướng phát triển sản xuất với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường. Hoạt động thương mại góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, phục vụ và kích thích nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, tham gia mở rộng thị trường, bình ổn giá cả. Các hoạt động thương mại được phản ánh trung thực trên thị trường và có ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế khác.
ở Việt Nam đã hình thành một thị trường thống nhất, hàng hoá tự do lưu thông trong phạm vi cả nước, mức chênh lệch giá giữa các vùng trở nên không đáng kể. Trên thị trường có nhiều chủ thể buôn bán khác nhau, tạo ra sự cạnh tranh giữa những người cung ứng hàng hoá ngày càng phong phú, thị trường được đa dạng hoá. Các nhu cầu của người tiêu dùng được thảo mãn ngày càng nhiều hơn và thái độ phục vụ rất tận tình. Việc tiêu thụ hàng hoá là nguồn sống của nhà thương nghiệp, nên thương nghiệp tư nhân cạnh tranh với thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp tập thể. Do có sự cạnh tranh giữa những người bán hàng nên khách hàng lên ngôi và thực sự trở thành “thượng đế”.
Tuy nhiên, bên cạnh sự đa dạng, phong phú và phục vụ tận tình của người bán hàng, thì ta còn thấy những mặt tiêu cực như hiện tượng tranh mua, tranh bán, làm hàng giả, tiêu thụ hàng lậu, hàng trốn thuế. Thực chất mấy năm qua thị trường Việt Nam đã bị hàng lậu, hàng giả, hàng trốn thuế o ép từ nhiều phía. Người tiêu dùng thì được lựa chọn nhiều chủng loại hàng hoá chất lượng tốt nhưng người sản xuất thì bị hàng ngoại chen lấn rất mạnh và nhiều doanh nghiệp bị phá sản vì sự cạnh tranh của hàng ngoại. Lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng có nhiều khó khăn do kỷ luật xuất khẩu không được nghiêm minh. Trong khi thị trường Việt Nam tràn ngập nhiều loại hàng xa xỉ, cao cấp, nhiều loại hàng độc hại như thuốc lá, rượu…thì một số hàng thiết yếu như thuốc men, quần áo, sách vở, hàng cho đồng bào miền núi, hàng phục vụ cho những nhu cầu tối thiểu của nhân dân lại rất thiếu. Sở dĩ có tình hình đó là vì các doanh nghiệp thương mại hiện nay chủ yếu chạy theo mục tiêu lợi nhuận nên họ tập trung phục vụ ở nơi đông dân cư và những người giàu có, có sức mua và nhu cầu cao, còn những nơi ít dân, thưa dân, dân nghèo, không có tiền như nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa thì ngay cả những nhu cầu thiết yếu cũng không được đáp ứng do giá vận tải đẩy lên quá cao.
Chính vì những nguyên nhân trên nên việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một yếu tố cần thiết. Việc ra đời các doanh nghiệp nhà nước sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những vật phẩm thiết yếu, nhất là nhóm dân cư nghèo, ít tiền ở vùng xa, vùng sâu, vùng núi cao như muối, muối iốt, sách vở cho học sinh, quần áo thuốc mem…Ngoài ra nhà nước còn có thể sử dụng các doanh nghiệp thương mại này để thực hiện chức năng điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chi phối các hoạt động trên thương trường. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải có nhiều tập đoàn kinh tế đủ mạnh để nối ra thị trường bên ngoài. Các công ty xuất nhập khẩu rất khó thực hiện các hoạt động xuất khẩu. Vì vậy việc hình thành các tập đoàn thương mại quốc tế gia để vươn ra thị trường nước ngoài là một yêu cầu rất cơ bản ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp tư nhân không thể đảm đương được vai trò chủ đạo trong ngoại thương. Việt Nam đang từng bước hội nhập xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu mà bước khởi đầu quan trọng là việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để chuẩn bị gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC). Để có một chỗ đứng trong thị trường quốc tế, nhà nước cần đứng ra tổ chức các tập đoàn thương mại quốc gia làm cầu nối cho các doanh nghiệp hội nhập vào thị trường thế giới.
II. Thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cơ cấu tổ chức:
Bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng còn quá cồng kềnh, chi phí hành chính và tiếp khách quá lớn. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, trước hết là giám đốc chậm được đổi mới.
VD:
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp nhà nước
Bộ máy hành chính gián tiếp
Chi phí hành chính gián tiếp
5 người
3,8%
38 người
24%
Số liệu điều tra trên đây ở tỉnh Vĩnh Phúc đối với một doanh nghiệp nhà nước có vốn 2 tỷ đồng và một doanh nghiệp tư nhân có vốn tương tự và hoạt động kinh doanh nghành nghề giống nhau.
Đa phần các giám đốc của các doang nghiệp thương mại nhà nước vẫn là hãnh tiến , nguyên vị tư cơ chế bao cấp chuyển sang, chưa có sự sàng lọc tuyển chọn khách quan theo tiêu chuẩn của người giám đốc trong cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, việc lên chức, lên lương của các nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn nhiều hạn chế. Việc lên chức thì theo kiểu “tre già măng mọc”, người đương chức có nghỉ hưu hoặc vì một lý do nào đó không còn công tác nữa thì người sau mới được lên. Việc lên chức lại diễn ra theo hình thức bổ nhiệm, do đó đã dẫn đến việc trì trệ trong phấn đấu, dẫn đến tiêu cực trong quản lý. Người đương chức không cần phấn đấu, chỉ cần giữ vững được mối quan hệ với lãnh đạo cấp trên là giữ được vị trí của mình. Chính vì lý do đó mà đội ngũ cán bộ thì trì trệ, không chịu đổi mới, công nhân viên thì không cố gắng phấn đấu trong công việc. Trong công việc thì không có sự ganh đua để thể hiện khả năng của mình. Đây là lý do dẫn đến đội ngũ cán bộ nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng sa sút và yếu kém. Điều này làm cho các doanh nghiệp nhà nước không thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Cơ chế hoạt động.
Sự hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn bị bó chặt trong một cơ chế tài chính xơ cứng. Cơ chế khoán, đặc biệt là “khoán trắng”và khoán “mặc kệ”đã làm lu mờ vai trò và uy tín của thương nghiệp quốc doanh.
Các donh nghiệp, muốn sản xuất kinh doanh chủ động và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì trong cơ cấu vốn bao giờ cũng phải chiếm tỷ lệ thích ứng. Nhưng do suy nghĩ cũ của thời bao cấp còn đè nặng cho nên họ thường ỷ lại, trông chờ bên trên. Khi đã có vốn lưu động dù là phải vay hay có sự đóng góp của cán bộ nhân viên thì việc sử dụng vốn đó lại không đúng mục đích.
Thực chất của khoán kinh doanh là cho cán bộ công nhân viên thuê cơ sở vật chất và biển hiệu quốc doanh với giá thấp hơn cho tư nhân thuê. Nhà nước giao khoán cửa hàng, quầy hàng và cung ứng hàng hoá cho người nhận khoán, lúc đầu là 70/30, 70 là hàng công ty giao khoán; 30 là hàng tự chạy của người nhận khoán. Nhưng dần dần nguồn hàng tập trung của công ty không còn, tỷ lệ bên trên sẽ bị đảo ngược lại; 70/30, thậm chí không có hàng cung ứng, đơn vị nhận khoán phải lo tất cả. Trong tình hình như vậy, đơn vị nhận khoán lợi dựng cửa hàng và biển hiệu quốc doanh để thả sức bóp chẹt người tiêu dùng và có khi cò
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A7028.DOC