Các kế hoạch phát triển kinh tế đó là những định hướng của chính phủ để nhằm vào những mục tiêu nhất định do đó nó tác dụng phát huy mọi tiềm năng tổng hợp của nền kinh tế. Thông qua kế hoạch để Nhà nước quản lí toàn bộ nền sản xuất xã hội, để điều chỉnh quá trình tái sản xuất xã hội.
Hiện nay ở nước ta đã chuyển sang cơ chế mới vì vậy công tác kế hoạch cũng phải có sự chuyển biến từ phương thức kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang phương thức xây dựng kế hoạch theo định hướng, phải coi thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ của công tác kế hoạch hoá.
Công tác kế hoạch bao gồm kế hoạch vĩ mô và kế hoạch vi mô, kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Việc thực hiện công tác kế hoạch tốt, đúng hướng là điều kiện cần thiết để Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lí vĩ mô nền kinh tế đạt được mục tiêu đề ra.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh tế thị trường và vài trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước nhưng điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế đó là có điều kiện: các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng; giá cả thị trường có tính linh hoạt, thông tin thị trường phải nhanh nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ thông tin liên quan.
2.2.2. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, tình người”.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài lại có được lạm phát và đầy đủ công ăn việc làm.
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi, là nền kinh tế hỗn hợp.
2.3. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
Như sự phân tích ở trên thì cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật. Để khắc phục sữa chữa những khuyết tật, hạn chế của cơ chế thị trường, tất yếu khách quan phải có sự can thiệp của “bàn tay hữu hình”, đó là vai trò của Nhà nước vào thị trường, vào nền kinh tế. Do đó ngày nay ở các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết nói riêng và ở các nền kinh tế nói chung đều có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế theo phương hướng và mục tiêu như thế nào phụ thuộc vào bản chất các hình thức Nhà nước và con đường mà mỗi quốc gia lựa chọn. Đất nước Việt Nam chúng ta muốn đạt tới mục tiêu XHCN cần phải chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, song cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Việc nước ta chọn cơ chế mới là cần thiết, tất yếu và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của nước ta trên con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua TBCN.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và chưa có mô hình vạch sẵn. Vì thế nhiệm vụ cấp bách đặt ra hiện nay là xác định nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Nét tổng quát của cơ chế thị trường của ta hướng tới là “cơ chế kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu, nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp bảo đảm thị trường thống nhất, mở rộng, phục vụ các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, cân bằng và ổn định. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội”.
Theo mô hình tổng quát nêu trên, có thể xác định những nội dung cơ bản của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là: Xã hội hoá sản xuất cao, phải có sự phân công lao động hết sức sâu sắc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho XHCN, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy tối đa mọi nguồn lực để thúc đẩy mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội phát triển, đổi mới căn bản cách tổ chức và phương thức quản lý, mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, hợp tác hoá, tiến hành cách mạng văn hoá. Nâng cao, khẳng định vai trò, địa vị làm chủ của người lao động trong nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, tự do dân chủ. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá- xã hội, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh, phải phát triển toàn diện trên mọi mặt mọi hướng, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, tự do hoá thương mại và canh tranh… Tất cả những cái trên đều vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Trong nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước. Đó là vai trò điều tiết sự phát triển kinh tế và định hướng cho sự phát triển. Nhà nước điều tiết sự phát triển kinh tế bằng việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường để kinh tế phát triển. Nhà nước vẫn sử dụng công cụ kế hoạch hoá bên cạnh đó còn sử dụng hệ thống các công cụ kinh tế như thuế, lãi suất, tín dụng, cung cầu thị trường tiền tệ, tỉ giá hối đoái… để điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Qua đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải vươn lên làm ăn. Thông qua hệ thống pháp luật Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm tự do dân chủ nhưng có kỷ cương. Nhà nước tạo môi trường ổn định lành mạnh để các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tự do hoạt động, tư bản nước ngoài yên tâm đầu tư, kinh tế tư nhân hăng hái bỏ vốn làm giàu. Nhà nước định hướng sự phát triển nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo định hướng XHCN. Nhà nước bắt buộc mọi đối tượng phải hoạt động trong một khuôn khổ nhất định cho phép để đảm bảo công bằng, hiệu quả trong kinh tế, hướng dẫn toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội đi vào quỹ đạo của CNXH.
Ở nước ta, Nhà nước đưa ra quyết định chiến lược kinh tế - xã hội, có kế hoạch triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu cuối cùng, tổ chức quản lý kinh tế thực hiện kế hoạch đã định, xác định cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế, chỉ huy nền kinh tế, điều hoà phối hợp thực hiện kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch so sánh giữa mục tiêu, kế hoạch, tiêu chuẩn với thực tế hoạt động, khuyến khích và trừng phạt. Như vậy có thể thấy rằng vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta trong cơ chế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa hết sức to lớn và quan trọng. Kinh tế phát triển đi lên hay xảy ra khủng hoảng lạm phát tất cả đều phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một cơ chế mới. Việt Nam chúng ta vận dụng nó là hết sức đúng đắn nhưng liệu thực sự có thành công hay không còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố mà yếu tố quan trọng nhất là Nhà nước. Nhà nước không thể thiếu được trong cơ chế thị trường định hướng XHCN nói riêng, trong mọi nền kinh tế nói chung vì thế luôn cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đặc biệt Việt Nam chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN thì vai trò của Nhà nước càng cần được tăng cường hơn nữa để chúng ta xây dựng thành công cơ chế mới, để đạt được những gì đã đề ra.
3. Mục tiêu và các chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở Việt Nam khách quan phải có sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
3.1. Mục tiêu của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
a. Mục tiêu phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, có hiệu quả
Để phân bổ các nguồn lực hợp lí có hiệu quả, Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân. Thông qua công cụ này, Nhà nước có thể nắm bắt được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung- cầu, sản xuất- tiêu dùng, hàng hoá- tiền tệ, trạng thái kinh tế của các vùng trong cả nước để từ đó phân bổ các nguồn lực(vốn, lao động, công nghệ…) cho phù hợp từng vùng, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà Nhà nước khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực như xây dựng công trình công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học kĩ thuật công nghệ, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, giảm bớt độ rủi ro và hỗ trợ cho các thành phần tổ chức kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển có hiệu quả nhất.
Đây là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam chúng ta. Bởi chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kinh tế xã hội còn nghèo nàn lạc hậu, chưa phát triển, giữa các vùng miền còn có sự chênh lệch nhau khá lớn về điều kiện phát triển, về trình độ lao động, về sự hiểu biết,… Cho nên việc phân bổ các nguồn lực hợp lí sẽ là động lực đưa đất nước phát triển đi lên tránh khỏi sự tụt hậu so với thế giới, giúp chúng ta quá độ thành công tiến lên xây dựng CNXH.
b. Mục tiêu phân bố công bằng tổng sản phẩm quốc dân và giải quyết tốt các vấn đề xã hội
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, Nhà nước sử dụng chính sách thu nhập và giáo dục nâng cao trình độ dân trí. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp song bắt buộc thực hiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính. Việc phân phối và phân phối lại hợp lí khuyến khích mọi cá nhân tổ chức làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, giảm sự chênh lệch quá đáng về mức sống, trình độ giữa các miền vùng, tầng lớp dân cư, giảm sự phân hoá giàu nghèo. Đối với các vấn đề xã hội, Nhà nước có các giải pháp để xoá nạn mù chữ, hoàn thành phổ cập giáo dục, giảm sự gia tăng dân số, tạo thêm công ăn việc làm, ngăn chặn và làm giảm ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên bừa bãi, đẩy lùi tham nhũng, các tệ nạn xã hội, loại trừ văn hoá phẩm độc hại…
c. Mục tiêu phát triển toàn diện
Nhà nước đề ra các chính sách, biện pháp để thúc đẩy phát triển toàn diện: công, nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong công nghiệp chú trọng trước hết vào công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng tiêu dùng, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng. Cải tạo, nâng cấp và xây mới kết cấu hạ tầng cơ sở. Về dịch vụ tập trung phát triển lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, các dịch vụ tài chính ngân hàng,…
Phát triển toàn diện sẽ giúp cho Việt nam nói riêng, các nước trên thế giới nói chung có một nền tảng vững chắc, làm bàn đạp thúc đẩy kinh tế xã hội ngày một phát triển đi lên. Phát triển toàn diện nhưng có chọn lọc là điều kiện cần thiết để chúng ta tiến lên XHCN, để chúng ta xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho XHCN.
d. Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế
Muốn kinh tế ổn định và tăng trưởng, Nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường, phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nó. Ổn định và tăng trưởng kinh tế có nghĩa là duy trì sự ổn định cơ bản của mức vật giá, ngăn ngừa và kiềm chế lạm phát. Duy trì sự ổn định cơ bản của công ăn việc làm, hạn chế tỉ lệ thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm, xây dựng môi trường làm việc tốt. Duy trì sự ổn định cơ bản của tăng trưởng kinh tế, làm cho kinh tế ổn định hài hoà. Đảm bảo sự cân bằng cơ bản của thu chi ngân sách, sự cân bằng cơ cấu.
Đây là một mục tiêu cần có và cần phải đạt được. Kinh tế tác động đến mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Vì vậy ổn định và tăng trưởng kinh tế thúc đẩy đất nước phát triển toàn diện.
e. Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh tổ quốc.
Việt Nam chúng ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH, việc bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là hết sức quan trọng, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Muốn vậy Nhà nước phải giữ ổn định chính trị, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, luôn sẵn sàng đối phó trong mọi tình huống.
Tóm lại, đất nước ta tiến lên XHCN với mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Các mục tiêu trên được dựa trên cơ sở lấy con người và phục vụ con người làm nền tảng, đưa đất nước và con người Việt Nam vươn tới “chân, thiện, mỹ”. Tất cả các mục tiêu trên chung quy lại đều nhằm để phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
3.2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
Ta biết rằng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất quan trọng, quan trọng nhất là để nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng quản lý kinh tế. Các chức năng đó là gì? Đây chính là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, tìm hiểu.
Thứ nhất: Tạo điều kiện và môi trường cho sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị- kinh tế- xã hội cho các doanh nghiệp yên tâm làm ăn. Muốn vậy Nhà nước phải duy trì luật pháp, duy trì trật tự an toàn xã hội, khống chế lạm phát và điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật, những quy định. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi khủng hoảng, lạm phát. Nhà nước tuy không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo nhưng Nhà nước có thể làm giảm khủng hoảng, giảm lạm phát thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ.
Nhà nước phải là người xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đó là xây dựng hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp năng lượng(điện), hệ thống cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất và hệ thống thông tin liên lạc. Để đáp ứng đòi hỏi của phát triển sản xuất, Nhà nước phải xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ, tín dụng. Ngoài ra Nhà nước còn phải xây dựng cơ sở hạ tầng về mặt xã hội như y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá.
Nhà nước Việt Nam chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện chức năng này ngày một tốt hơn. Tuy nhiên vì là một nước nghèo, một nước đi sau cho nên ta cần nghiên cứu học hỏi nghiêm túc kinh nghiệm của các nước để có hướng đi và việc làm đúng.
Thứ hai: Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua các kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, các doanh nghiệp được tự do trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước là người hoạch định, đưa ra các chính sách phát triển kinh tế- xã hội để dẫn dắt các doanh nghiệp đầu tư hợp lý sao cho vừa có lợi cho bản thân doanh nghiệp vừa có lợi cho xã hội. Thông qua đó Nhà nước thực hiện ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để Nhà nước có thể quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: Phải là người hoạch định và thực hiện các chính sách về mặt xã hội.
Phát triển kinh tế phải thống nhất và đi đôi với phát triển xã hội. Để phát triển xã hội, Nhà nước phải có các chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách cho người khuyết tật, người mù, nâng cao sự hiểu biết cho toàn dân nói chung dân tộc ít người nói riêng, chính sách hỗ trợ vùng sâu vùng xa, hỗ trợ cho các vùng bị thiên tai, hạn hán, đầu tư xây dựng trường học, bệnh viện,…
Thứ tư: Thực hiện công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập
Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng kinh tế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Cho nên để đảm bảo cho sự thành công của cơ chế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước thực hiện công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội để nhằm khắc phục hạn chế, khuyết tật của cơ chế thị trường, thúc đẩy phát huy những mặt tích cực.
Thứ năm: Quản lí và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia.
Tài nguyên quốc gia là hữu hạn, nếu chúng ta sử dụng không có kế hoạch thì sẽ dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên kéo theo sự đi xuống của nền kinh tế. Vì thế Nhà nước phải can thiệp để quản lý và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia sao cho có hiệu quả cao nhất thúc đẩy kinh tế phát triển, tránh sự lãng phí.
4. Các công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lí vĩ mô nền kinh tế
4.1. Luật pháp
Nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm, tính chuẩn mực. Vì thế pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng chứa đựng trong mình nó giá trị xã hội: ổn định và chuẩn mực hoá các quan hệ xã hội. Pháp luật hoàn toàn không phải là phương tiện để sáng tạo ra các quan hệ kinh tế mà nó được đẻ ra từ đòi hỏi khách quan của các quan hệ kinh tế . Nhà nước đã sớm xác định được vai trò quan trọng của công cụ luật pháp. Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật nhằm “ổn định hoá” “chính thức hoá” các giá trị vốn có của các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, luật kinh tế là các “hành lang”, các khung pháp lí ổn định, chính thức mà trong đó các quan hệ kinh tế tự do tồn tại và phát triển, phù hợp với giá trị vốn có của nó, được xã hội cần, xã hội thừa nhận. Các đạo luật kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, tự do dân chủ nhưng có kỉ cương. Như vậy thông qua công cụ luật pháp, Nhà nước có thể cưỡng chế các hoạt động của doanh nghiệp nếu như hoạt động đó làm tổn hại tới lợi ích xã hội. Nó còn là công cụ để Nhà nước tạo môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tạo hành lang pháp lý an toàn cho sản xuất kinh doanh để thành phần kinh tế trong nước yên tâm, hăng hái làm giàu, tư bản nước ngoài không phải lo sợ khi đầu tư vốn,… Có thể nói độ tin cậy của các nhà đầu tư với Nhà nước được tập trung và phản ánh ở mức độ tin cậy vào pháp luật. Công cụ luật pháp là công cụ mạnh, là công cụ quản lý rất có hiệu quả, thể hiện vai trò định hướng và điều tiết của Nhà nước, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ngày một đi lên theo đúng định hướng XHCN.
4.2. Công tác kế hoạch
Các kế hoạch phát triển kinh tế đó là những định hướng của chính phủ để nhằm vào những mục tiêu nhất định do đó nó tác dụng phát huy mọi tiềm năng tổng hợp của nền kinh tế. Thông qua kế hoạch để Nhà nước quản lí toàn bộ nền sản xuất xã hội, để điều chỉnh quá trình tái sản xuất xã hội.
Hiện nay ở nước ta đã chuyển sang cơ chế mới vì vậy công tác kế hoạch cũng phải có sự chuyển biến từ phương thức kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang phương thức xây dựng kế hoạch theo định hướng, phải coi thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ của công tác kế hoạch hoá.
Công tác kế hoạch bao gồm kế hoạch vĩ mô và kế hoạch vi mô, kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Việc thực hiện công tác kế hoạch tốt, đúng hướng là điều kiện cần thiết để Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lí vĩ mô nền kinh tế đạt được mục tiêu đề ra.
4.3. Chính sách về tài chính và tiền tệ
a. Chính sách tài chính:
Đây là tổng hợp các biện pháp tài chính nhằm sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Có thể nói chính sách tài chính là phương tiện, là công cụ trọng yếu, là sức mạnh vật chất để Nhà nước can thiệp có hiệu lực vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường hiện nay.
Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện ở hai nội dung: thu và chi tiêu chính phủ, từ đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả và việc làm.
Thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách tài chính có thể giải quyết tốt vấn đề lạm phát, suy thoái và thất nghiệp tạo nên sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
b. Chính sách tiền tệ:
Cùng với chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là nhân tố quan trọng tác động đến sản lượng, thất nghiệp và lạm phát trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách tiền tệ được hình thành dựa trên cơ sở khoa học của sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất và lưu thông. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế. Bằng công cụ tiền tệ, Nhà nước có thể tác động vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, ngăn chặn tính tự phát của TBCN.
Qua đây có thể thấy rằng bằng chính sách tài chính và tiền tệ, Nhà nước tác động để điều hoà quan hệ cung cầu về vốn và tiền mặt trong xã hội, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ vốn cho đầu tư, đáp ứng chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Bên cạnh đó còn nhằm làm giảm bội chi ngân sách, kiểm soát và khống chế lạm phát, ổn định sức mua. Thông qua chính sách này Nhà nước xử lý đúng mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa phát triển kinh tế và tăng cường cho an ninh quốc phòng, giải quyết mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
4.4. Điều tiết kinh tế đối ngoại
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế đối ngoại, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch, tỉ giá hối đoái,…
Thông qua những công cụ này Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất nhập khẩu đồng thời bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng nhiều,…
4.5. Chính sách, công cụ khác
Ta biết rằng, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng, để thực hiện tốt vai trò của mình, ngoài những công cụ kể trên, Nhà nước còn phải sử dụng những công cụ khác để tác động vào nền kinh tế thị trường nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, ngăn ngừa các đột biến xấu của thị trường,…
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Tình hình thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Ở nước ta, trong Nghị quyết của những kỳ Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối kinh tế của Đảng và vạch ra các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn khoảng 10 năm sau. Sau đó, các mục tiêu của kế hoạch 5 năm được đưa ra trên cơ sở cụ thể hoá các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng năm trên cơ sở tiếp tục cụ thể hoá mục tiêu của kế hoạch 5 năm và có cân nhắc thêm về những điều kiện thực tiễn phát sinh tại các thời điểm cụ thể. Trong thời gian qua, tình hình thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế của Nhà nước đạt được như sau:
* Mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Trong 10 năm qua, GDP của Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 7,8%, GDP tăng hơn 2,1 lần nhưng GDP bình quân đầu người chỉ tăng khoảng 1,8 lần so với năm 1994. Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trong những năm qua là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhưng phải chú ý rằng nước ta đi lên từ một xuất phát điểm thấp kém. Năm 1998, mức sống tính theo GDP bình quân đầu người đứng thứ 134/174 nước, chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI đứng thứ 108/174 nước và chỉ số nghèo khổ (HPI) là 47/85 nước đang phát triển.
Cho dù tốc độ tăng trưởng trong 20 năm tới chúng ta có vượt trên các nước trong khu vực 2% đến 3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28298.doc