Khi đương sự có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp là trách nhiệm và nghĩa vụ của các đương sự.
Sau khi đã thu thập các chứng cứ cần thiết, Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc tất cả các chứng cứ mà đương sự có phải được giao nộp cho Tòa án để làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự xác định và ghi nhận trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự. “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” và “đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Khoản 1, 2 Điều 79 Bộ Luật tố tụng dân sự).
Người vảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật sư hoặc người khác) là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong đó bao gồm cả việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án nhằm chứng minh các tình tiết liên quan đến vụ kiện, cũng như chứng minh các yêu cầu của thân chủ. Nguyên tắc chưng, việc thu thập chứng cứ của Luật sư phải dựa trên mụch đích cơ bản là nhằm chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3167 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kỹ năng của luật sư khi tham gia tranh tụng trong các vụ án tranh chấp đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cứ và giao nộp chứng cứ cho Tòa án:
Thực tiễn, các tranh chấp nảy sinh khá phong phú và đa dạng với khá nhiều các dạng tranh chấp thường gặp, tranh chấp đất do người sự dụng đất bị người khác chiếm dụng hoặc đòi trả lại đất; tranh chấp nhà đất; tranh chấp tài sản gắn liền với loại đất chưa giao cho ai sử dụng do Nhà nước thuê để làm nhà ở; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tranh chấp đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản; tranh chấp đất có nhà ở, vật kiến trúc, cây lâu năm; tranh chấp diện tích đất vợ chồng người con được bố mẹ cho nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận khi vợ chồng con ly hôn bố mẹ đòi lại đất; tranh chấp đất được cấp để tách hộ; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, đất nông nghiệp để trong cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở; tranh chấp hợp đồng cho thuê đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất…
Với mỗi loại tranh chấp chính sách và đường lối giải quyết lại có những khác biệt mang tính bản chất và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật riêng đối với từng loại đất. Vì vậy, khi thu nhập các chứng cứ, Luật sư phải nắm vững tính chất của quan hệ Luật nội dụng điều chỉnh tương ứng với từng loại quan hệ pháp luật tranh chấp đất đai để chính minh cho từng yêu cầu cụ thể của thân chủ.
Vấn đề mấu chất với việc giải quyết tranh chấp đất dù thuộc quan hệ nào đó là xác định nguồn gốc đất. Đây cũng là cơ sở đầu tiên để chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Vì vậy, ngay khi chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, Luật sư cần giúp thân chủ thu nhập chứng cứ để chứng minh nguồn gốc đất. Các chứng cứ được thể hiện qua việc thu thập một trong các giấy tờ về đất sau đây:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Trên thực tế, nhiều trường hợp đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp, tuy nhiên loại đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại có ít tranh chấp. Phần lớn các tranh chấp quyền sử dụng đất lại rơi vào trường hợp đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Luật sư cần phải căn cứ vào các quy định tại khoản 1, 2 và 5 –Điều 50 Luật đất đai năm 2003 để xác định các loại giấy tờ hợp lệ hoặc không hợp lệ đối với đất để yêu cầu khách hàng cung cấp hoặc tự mình thu thập nhằm xác định các căn cứ pháp lý của đất đang có tranh chấp, có thể xác định qua các loại giấy tờ sau:
Giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15-10-1993 do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ công hòa, chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính.
Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất.
Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà gắn liền với đất ở trước ngày 15-10-1993 nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng đất trước ngày 15-10-1993.
Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật
Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất (ví dụ bằng khoán điền thổ)
Một trong các giấy tờ nêu trên đây mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày 01-07-2004 (ngày Luật đất đai có hiệu lực thi hành) chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Khi thu thập các chứng cứ trên, Luật sư cần phải xem xét và nghiên cứu kỹ chứng cứ để xác định quyền của người sử dụng đất và đánh giá giá trị pháp lý của các giao dịch được xác lập khi chủ sử dụng đất có các loại giấy tờ này. Đây cũng là cơ sở giúp Luật sư xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai và chứng minh về thẩm quyền của Tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp đất của thân chủ theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai năm 2003.
Hồ sơ khởi kiện đối với tranh chấp đất thông thường bao gồm: các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể kiện, giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất. Trường hợp tranh chấp các giao dịch về đất phải có các giấy tờ chứng minh về giao dịch… theo quy định tại Điều 135, 136 Luật đất đai năm 2003, hóa giải tranh chấp đất đai tại các cơ sở là thủ tục đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai. Kết quả hóa giải cấp cơ sở (có thể không thành hoặc không hóa giải được) là điều kiện bắt buộc để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án. Vì vậy, trước khi thân chủ khởi kiện ra Tòa, Luật sư cần hướng dẫn thân chủ làm thủ tục hóa giải cấp cơ sở đối với loại tranh chấp này. Chứng cứ cần thu thập là biên bản hòa giải cấp cơ sở nằm trong các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khởi kiện của thân chủ nộp cho Tòa án để Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử, bên cạnh việc thu thập các chứng cứ về nguồn gốc đất, có nhiều vụ án giấy tờ về đất không thể hiện chính xác số thửa đất. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi, Luật sư cần hướng dẫn thân chủ làm đơn đề nghị Tòa án xác minh về nguồn gốc đất, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân và cơ quan địa chính nơi có đất tranh chấp.
Luật sư cũng có thể đến Ủy ban nhân dân xã, phường yêu cầu cung cấp các loại xác nhận liên quan đến việc sử dụng ổn định lâu dài của chủ sử dụng đất, quy hoạch chi tiết của khu vực đang có tranh chấp (nếu có); đề nghị cơ quan quản lý đất đai chuyên ngành cung cấp các loại bản đồ, sổ đăng ký đất đai, sổ mục kê… để có được đầy đủ các thông tin về thửa đất, chủ sử dụng đất và nguồn gốc đất đai, thời gian sử dụng đất, các biến động đất đai, quá trình chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp đương sự hoặc Luật sư trực tiếp đến các cơ quan này để thu thập chứng cứ nhưng không thu thập được vì những lý do khách quan. Đây là cơ sở để Luật sư hướng dẫn thân chủ làm đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, như để nghị Tòa án gửi công văn đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân, cơ quan địa chính có thẩm quyền) yêu cầu cung cấp các tài liệu địa chính, các tài liệu có liên quan hoặc xác nhận quyền sử dụng đất của đương sự. Trong đơn thể hiện rõ về việc mình đã cố gắng tự thu thập chứng cứ như thế nào, lý do tại sao không thể tự mình thu thập được chứng cứ và các biện pháp đã áp dụng mà không có kết quả.
Tùy theo yêu cầu cụ thể và vị trí tham gia tố tụng của thân chủ, Luật sư hướng dẫn thân chủ hoặc tự mình thu thập các chứng cứ để xác định tình trạng thực tế của đất đai đang có tranh chấp và các công sức duy trì, tôn tại và nâng giá trị sử dụng của quyền sử dụng đất. Đây là những tài liệu thông thường được thu thập và bổ sung sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án.
Khi tìm hiểu về đất đai đang có tranh chấp, Luật sư không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, xem xét các giấy tờ, chứng cứ do khách hàng cung cấp hoặc tự mình thu thập mà nhất thiết phải tận mắt xem xét thực trạng đất đai, diện tích đất, vị trí cụ thể, kết cấu đất như sau:
Kiểm tra, đối chiếu thực tế đất đai đang tranh chấp với các giấy tờ tài liệu thu thập được để làm rõ mức độ phù hợp giữa các giấy tờ với thực tế đất đai.
Xác định loại đất, thực tế sử dụng đất như thế nào, sử dụng đất có đúng mục đích hay không. Trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Luật sư cần xác định xem xét đến mốc và chỉ giới giao đất. Việc xác định mốc và chỉ giới giao đất có liên quan trực tiếp đến đường lối giấy tờ giải quyết của Tòa án.
Luật sư có thể tham khảo hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại công văn số 16/1999/KHXX ngày 01-02-1999 của Tòa án nhân dân Tối cao giải đáp một số vấn đề như sau:
“Trong trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên nếu theo Sổ địa chính thì diện tích đất thực tế theo đúng mốc và chỉ giới giao đất thì Tòa án giải quyết theo diện tích thực tế của đất đó;
Trong trường hợp diện tích đất thực tế rộng hơn hoặc có thể nhỏ hơn diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng nếu theo Sổ địaa chính thì diện tích đất thực tế có một phần ngoài mốc và chỉ giới giao đất, thì Tòa án chỉ giải quyết theo diện tích đất thực tế trong mốc và chỉ giới giao đất. Phần diện tích ngoài mốc và chỉ giới giao đất mà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”.
Trường hợp đất đã được tôn tạo (lấp ao, san hồ…), Luật sư cũng cần hướng dẫn thân chủ thu thập chứng cứ để xác định và tính toán công sức cho người đã san lấp (trường hợp bảo vệ quyền lợi của người đã có công lấp ao, vũng, hồ…)
Luật sư có thể ước tính giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào khung giá đất, hệ số sinh lợi và thực tế chuyển nhượng đất đai địa phương nơi có đất tranh chấp. Điều này đặc biệt có giá trị trong việc đưa ra các chứng cứ để thuyết phục Hội đồng định giá xác định theo giá đất ở địa phương tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Đối với từng loại tranh chấp đất, từng loại quan hệ pháp luật cụ thể, Luật sư cũng cần lưu ý những quy định của pháp luật điều chỉnh đối với đặc trưng của loại đất. Nếu là đất thổ cư cần làm rõ đất do ông bà, cha mẹ để lại, đất dẫn dân hay đền bù; đất canh tác cần xem xét cấp cho ai – cá nhân hay hộ gia đình. Trường hợp đất phần trăm (đất 5% kinh tế phụ gia đình, đất 10%...), Luật sư cũng cần tì6m hiểu cấp cho ai, hiện ai đang sử dụng, việc sử dụng có đúng mục đích không. Trường hợp là đất công, cũng nên xác định đất công cho thuê, lấn chiếm hay khai khẩn. Việc thu thập chứng cứ để xác định nguồn gốc đất và quá trình chuyển quyền sử dụng đất là cơ sở để xác định tính hợp pháp của các quan hệ chuyển nhượng. Các chứng cứ chứng minh thời điểm sử dụng đất đai của thân chủ cũng rất có ý nghĩa trong việc hợp thức hóa quyền sử dụng đất và quy định pháp luật tại thời điểm đó.
Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất xuất phát từ những giao dịch dân sự như cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thừa kế… Với những vụ án này, đặc biệt lưu ý đến các chứng cứ liên quan đến việc xác lập giao dịch (các hợp đồng, các giấy biên nhận, sổ sách, địa chỉ qua các kỳ kê khai), thời điểm xác lập giao dịch, chủ thể xác lập, các chứng cứ chứng minh việc đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đến đâu, lỗi vi phạm của bên nào, mức độ thiệt hại…
Lưu ý, các chứng cứ Luật sư thu thập trên cơ sở yêu cầu của thân chủ với tính chất làm sáng tỏ tình tiết, sự kiện cần chứng minh và theo hướng có lợi cho thân chủ.
Mỗi loại giao dịch cụ thể có những quy định pháp luật điều chỉnh không hoàn toàn giống nhau về hình thức và điều kiện giao dịch, về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền, cơ sở pháp luật áp dụng. Việc thu thập chứng cứ của Luật sư cũng cần dựa trên đối tượng cần chứng minh trong vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích pháp của thân chủ, đường lối giải quyết của Tòa án nhân dân Tối cao đối với loại tranh chấp. Chẳng hạn các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất xác lập trước ngày 15-10-1993 thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân; các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất kể từ sau thời điểm 15-10-1993 thì tùy theo đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa để xác định thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân hay Ủy ban nhân dân.
Trong các tranh chấp liên quan đến các giao dịch về đất, đặc việt là tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Luật sư cần xác định chính xác thời điểm xác lập giao dịch để từ đó có định hướng đối với việc thu thập chứng cứ chứng minh tính hợp pháp hay vô hiệu của giao dịch chuyển nhượng. Mỗi một thời điểm xác lập giao dịch, đường lối giải quyết của Tòa án có sự khác nhau (Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình).
Luật sư cần lưu ý phân biệt được thời điểm giao kết hợp đồng vì hợp đồng chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết. Đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự, Luật sư cần kiểm tra, đánh giá các điều kiện đảm bảo cho hợp đồng có hiệu lực theo quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch và các quy định điều chỉnh riêng về hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất… theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong những trường hợp, Bộ luật dân sự không trực tiếp quy định về quan hệ đó, cần tìm các căn cứ pháp lý tương ứng để dẫn chiếu áp dụng vào các tình tiết vụ án nhằm tạo cơ sở để xác định rõ mục đích thu thập chứng cứ nhằm chứng minh vấn đề mấu chốt nào trong vụ án.
Chẳng hạn, Bộ luật dân sự không quy định về hợp đồng mượn quyền sử dụng đất. Khi có tranh chấp về loại hợp đồng này cần dựa trên căn cứ pháp lý quy định về hợp đồng mượn tài sản trong Bộ luật dân sự để thu thập chứng cứ chứng minh tính hợp pháp của quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc chung, quyền sử dụng đất được xác định là một loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự.
Khi thu thập chứng cứ, Luật sư phải xuất phát từ quyền lợi của thân chủ, đây là cơ sở để xác định đối tượng cần chứng minh các căn cứ pháp lý tương ứng với thời điểm xác lập quan hệ mà pháp luật nội dung điều chỉnh.
2.1.1. Thời điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 01-7-1980 (ngày Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 201-CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15-10-1993 mới phát sinh tranh chấp:
Khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, giả sử là Luật sư của nguyên đơn (bên mua đất), Luật sư cần giúp thân chủ thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất, hợp đồng chuyển nhượng. Căn cứ theo quy định của pháp luật, Luật sư xác định hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng không. Nếu nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi của thân chủ bằng việc đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng, Luật sư cần lưu ý thu thập chứng cứ chứng minh thân chủ đã nhận đất. Trường hợp thân chủ chưa nhận đất, Luật sư phải thu thập chứng cứ chứng minh thân chủ đã trả đủ tiền, bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng đất nhưng chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó.
Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật, nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng. Để chứng minh cho yêu cầu của thân chủ đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng, Luật sư cần giúp thân chủ thu thập các chứng cứ về việc đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất…
2.1.2. Thời điểm tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01-7-1980 (ngày Chính phủ ban hành quyết định 201/CP) đến trước ngày 15-10-1993:
Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán, phát canh thu tô, chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức. Vì vậy, nguyên tắc chung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập trong giai đoạn này là hợp đồng trái pháp luật. Để chứng minh cho giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong giai đoạn này là hợp pháp, Luật sư cần hướng dẫn cho thân chủ (bên nhận chuyển nhượng) thu thập các chứng cứ sau chứng minh hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện, cụ thể là:
Thân chủ (bên nhận chuyển nhượng) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng
Trường hợp thân chủ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để chứng minh hợp đồng có hiệu lực, Luật sư cần thu thập chứng cứ chứng minh thân chủ đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất kinh doanh trên đất đó.
2.1.3. Thời điểm tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15-10-1993:
Luật sư cần lưu ý xem xét các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thực tiễn rất nhiều các vụ án khi các bên xác lập quan hệ hợp đồng, đối tượng chuyển nhượng chưa được phép chuyển nhượng (đất chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và hợp đồng chuyển nhượng không qua chứng nhận của công chứng Nhà nước và chứng nhận giao dịch khi vi phạm điều kiện này, ngoài việc thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất, hợp đồng chuyển nhượng, Luật sư cần lưu ý xác định tại thời điểm chuyển nhượng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa; xác định thời điểm phát sinh tranh chấp trước hay sau ngày 01-7-2004. Thời điểm này liên quan đến hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại Nghị quyết số 02/2004/NQ_HĐTP ngày 10-8-2004 quy định “Nếu từ ngày 01-7-2004 mới có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều này”.
Các chứng cứ khác mà Luật sư cũng phải thu thập là: Sau khi thực hiện hợp đồng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm chưa, đã làm nhà kiên cố chưa… Khi trồng cây hay khi làm nhà kiên cố, bên chuyển nhượng có phản đối không, có quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chứng trong lĩnh vực đất đai?
Như vậy, mục đích thu thập chứng cứ nhằm xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Trường hợp xem xét các tình tiết vụ án, áp dụng các quy định của pháp luật có căn cứ nhận định giao dịch đó không hợp pháp (đặc biệt là giao dịch vô hiệu về nội dung do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội), Luật sư cần hướng việc thu thập chứng cứ để chứng minh lối do hợp đồng vô hiệu, trên cơ sở lợi ích của khách hàng và vị trí tố tụng của thân chủ mình.
2.2. Hướng dẫn đương sự giao nộp chứng cứ cho Tòa án:
Khi đương sự có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp là trách nhiệm và nghĩa vụ của các đương sự.
Sau khi đã thu thập các chứng cứ cần thiết, Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc tất cả các chứng cứ mà đương sự có phải được giao nộp cho Tòa án để làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự xác định và ghi nhận trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự. “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” và “đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Khoản 1, 2 Điều 79 Bộ Luật tố tụng dân sự).
Người vảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật sư hoặc người khác) là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong đó bao gồm cả việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án nhằm chứng minh các tình tiết liên quan đến vụ kiện, cũng như chứng minh các yêu cầu của thân chủ. Nguyên tắc chưng, việc thu thập chứng cứ của Luật sư phải dựa trên mụch đích cơ bản là nhằm chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.
Xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh của đương sự, Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự là quyền và nghĩa vụ của đương sự. Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó. Việc hướng dẫn đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ cho Tòa án ngay từ khi khởi kiện và trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án được xác định theo tính chất của yêu cầu khởi kiện và vị trí tố tụng của thân chủ là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà Luật sư tham gia bảo vệ. Do vậy, tính chất thu thập chứng cứ của Luật sư có thể xác định qua 4 nhóm cơ bản sau:
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện. Tùy từng yêu cầu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp mà những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện để làm căn cứ Tòa án thụ lý vụ kiện và giải quyết tranh chấp.
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu phản tố.
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Luật sư cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để thu thập chứng cứ xác định sự thật khách quan của vụ án tranh chấp đất đai và chứng minh yêu cầu có cơ sở pháp lý.
Luật sư hướng dẫn thân chủ cung cấp chứng cứ liên quan đến các yêu cầu khác: trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp tố tụng nhằm thu thập chứng cứ thì phải có trách nhiệm đưa ra chứng cứ để chứng minh mình không thể tự thu thập chứng cứ, đương sự cũng phải chứng minh cho đề nghị của mình. Trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đương sự cũng phải đưa ra những căn cứ chứng minh cho tính cấp thiết phải tiến hành các biện pháp đó.
Theo khoản 2 Điều 84 Bộ Luật tố tụng dân sự, việc giao nộp chứng cứ được Tòa án lập biên bản về giao nộp chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu trong hồ sơ, một bản giao cho đương. Biên bản được lập theo mẫu biên bản giao nhận chứng cứ số 01a ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thảm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ. Khi giao nộp chứng cứ, nếu Tòa án không lập biên bản thì Luật sư cần yêu cầu Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án, thông thường Tòa án đều có mời các đương sự lên để lấy lời khai, nên tận dụng những cơ hội này để khai báo đầy đủ cho Tòa án. Song song với việc khai báo ở Tòa án, Luật sư cần chuẩn bị cho đương sự các bạn tự khai theo yêu cầu của Tòa án. Bản tự khai cần trình bày ngắn gọn và đi vào trọng tâm của vấn đề, giúp Tòa án đánh giá vấn đề một cách chính xác. Nếu biết được lập luận của đối phương thì cũng cần thiết thể hiện lập luận phản bác trong bản tự khai. Các phản bác nên ngắn gọn, có tính thuyết phục và phải luôn luôn được phân tích và nhìn nhận từ góc độ pháp lý, từ các văn bản pháp luật được áp dụng.
2.3. Hướng dẫn đương sự đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ:
Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định Khoản 2 -Điều 85 –BLTTDS.
Để có thể yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, Luật sư cần hướng dẫn đương sự chứng minh việc tự mình thu thập chứng cứ nhưng không thể thu thập được. Ví dụ đã yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cung cấp chứng cứ nhưng không được cơ quan chấp nhận và cơ quan đã có thông báo về việc không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, vì vậy đương sự có yêu cầu Thẩm phán tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ. Việc yêu cầu có thể bằng hình thức sau:
Làm đơn yêu cầu Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ. Trong đơn phải nói rõ yêu cầu Tòa án tiến hành biện pháp thu thập nào theo quy định tại Khoản 2 -Điều 85 –BLTTDS. Đồng thời gửi kèm theo đơn phải có những tài liệu thể hiện việc đương sự đã tự mình tiến hành biện pháp đó nhưng không thể được.
Ngoài hình thức làm đơn, theo quy định trong Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, đương sự cũng có thể đề nghị Tòa án tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ trong các bản khai, trong biên bản ghi lời khai hoặc trong biên bản đối chất.
Luật sư cần hướng dẫn đương sự thủ tục yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật.
Quá trình thu thập và giao nộp chứng cứ là một quá trình tố tụng quan trọng mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Thu thập và giao nộp chứng cứ là nghĩa vụ của đương sự.
CHƯƠNG 3: KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN MỞ PHIÊN TÒA SƠ THẨM.
3.1. Trao đổi các văn thư với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong quá trình chuẩn bị cho phiên tòa sơ thẩm, nhiều khi Luật sư sẽ phải là người chủ động co những đề xuất đối với Tòa án. Khi đưa ra những đề xuất này, Luật sư phải xuất phát từ lợi ích của khách hàng mà mình bảo vệ. Tùy vào từng vụ án cụ thể, Luật sư sẽ có những đề xuất phù hợp với Tòa án.
Theo quy định của Bộ luật tố dân sự, trong giai đoạn này Luật sư có thể đề xuất những vấn đề sau:
Đề nghị Tòa án áp dụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kỹ năng tranh chấp đất đai.doc