Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu
chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết
chặt cho vay. với mục tiêu chung là kìm chếlạm phát, ổn định kinh tế. Tuy
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút
nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ -ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên
Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế
Việt Namphải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức
bắt buộcđối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm
trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên
cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn. đã được tiến hành.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng
hóa tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác
có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm,
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 11
nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau hoa quả biến
động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998, ... giá lương thực
và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao.
Ngược lại, trong các năm 1997, 1999, 2000, ... các mặt hàng lương thực,
thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho CPI ở mức rất
thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã tăng tới 15%;
trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác
động mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được
sự tăng giá đột biến gây những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm
phát không cao như đã công bố.
2. Điều tiết vĩ mô kém
Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước
những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị
trường trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược
leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường
thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về
thuốc tân dược; Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường
thường là chậm trễ, vì thế hiệu quả điều tiết kém. Thí dụ: việc điều chỉnh
giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến nghị từ tháng 1/2004 nhưng
đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã tăng lên
480-500 USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520 USD/tấn. Do
vậy các doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh
tranh với các doanh nghiệp đã nhập phôi thép trước đó; Tình trạng độc
quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn đến thao túng, gây rối loạn thị
trường; Cũng do quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí
trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ lụy tất yếu của những tình trạng
trên là thị trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng
nhanh chóng trong những tháng đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô (sẽ được
phân tích ở phần dưới đây), nhưng dưới sức ép của dư luận, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức
cung ứng tiền tệ. Như vậy Ngân hàng Nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này
bằng một bất hợp lý khác. Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí
đầu tư, hạn chế đầu tư, kìm hãm sản xuất và tăng thất nghiệp.
3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi
tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này
về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh
toán tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 12
ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14
năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm,
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm
phát, cũng như giảm phát. Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán tăng cao
nhất, tới 39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc độ tăng chỉ số CPI
ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994, 1995, 1998,
chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998, tổng
phương tiện thanh toán tăng thấp nhất, chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới
9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện thanh toán tăng 7,26%,
thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá trong 6
tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phương tiện
thanh toán, tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay, ... đều
thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái, nhưng CPI đã là 9,5%. Tất nhiên như đã
nói ở trên là có độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6 tháng đến 1 năm.
Như vậy có thể khẳng định, lạm phát ở Việt Nam trong hơn 14 năm
qua nói chung và năm 2004 nói riêng không phải là lạm phát tiền tệ.
4. Do cầu kéo
Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng
hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do
đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới
tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh
hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm
mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục
tăng lên, làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến. Đồng thời
nhu cầu của người tiêu dùng được chuyển sang các mặt hàng thực phẩm
khác nên đã làm cho nhóm hàng thực phẩm nói chung tăng cao, tới 16,8%
trong 9 tháng đầu năm 2004. Mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản
từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của vật
liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất đồng lọat tăng lên.
Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất
khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện và khối lượng gạo xuất khẩu tăng, thị
trường xuất khẩu thủy sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của các mặt
hàng lương thực, thủy hải sản tăng lên.
5. Do chi phí đẩy
Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu
trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên
liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm
cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong
năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi phí của
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 13
một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Giá cước vận chuyển
hàng không tăng 8%, vận tải đường sắt tăng 10% nhằm thực hiện chính sách
hòa đồng giá vé giữa người Việt Nam và người nước ngoài, ... Bên cạnh đó
chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ... của người nông dân cũng tăng
cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi
phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt
ngành sản xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên.
Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản từ năm 1999 đến
nay, hệ lụy của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong
nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển
sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh doanh bất động sản gây
rối loạn thị trường này, đẩy giá bất động sản tăng hàng chục lần. Do vậy giá
thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh cũng tăng lên tương
ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao.
6. Do tâm lý dân chúng
Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt
hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp
đó (đầu năm 2004) Bộ Nội vụ công bố dự kiến tăng lương mới (thực tế tăng
từ 1/10/2004) đã kích thích tâm lý tăng tiêu dùng của dân chúng, làm cho giá
cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm (thông thường là tăng vào
cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sợ sự sụt giá của đồng tiền Việt
Nam thì NHNN Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000
đồng mới vào lưu thông (gấp đôi mệnh giá lớn nhất trước đó). Vào cuối năm
2003, NHNN Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền polyme mới với các mệnh giá
50.000, 500.000, 100.000 vào lưu thông. Đặc biệt là đồng tiền với mệnh giá
500.000 (lớn gấp 10 lần so với đồng tiền có mệnh giá lớn nhất trước đó) đã
tiếp tục tác động xấu đến tâm lý của dân chúng. Dân chúng cho rằng NHNN
Việt Nam đang đưa thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy
giá trị đồng tiền Việt Nam sẽ giảm mạnh. Do đó dân chúng càng có xu
hướng chuyển từ tài sản tiền tệ VNĐ sang các tài sản tài chính khác và càng
khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng trong nền
kinh tế tiếp tục gia tăng.
Như vậy qua nghiên cứu về diễn biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói
chung và diễn biến lạm phát nói riêng trong hơn 14 năm qua, cũng như riêng
năm 2004 có thể khẳng định, lạm phát ở nứơc ta là lạm phát giá cả. Nguyên
nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô kém, có một yếu tố nhỏ là cầu
kéo và yếu tố tâm lý dân chúng.
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 14
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH
LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức
tăng trưởng trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải
pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của
nền kinh tế.
I/ Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên
tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu
chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết
chặt cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy
nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút
nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên
Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế
Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ-
NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức
bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm
trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên
cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát
cao và đứng trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều
nước phải đứng giữa lựa chọn khó khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát
hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã lựa chọn quan điểm thắt
chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính sách lãi
suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam
đang đi theo hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối
ổn định như Hàn Quốc, Trung Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ
không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ hay vài nước ASEAN
khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để chống
suy thoái .
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 15
Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu.
Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và
nhiều ý kiến đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong
các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm
ngoái, đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả của các đợt rét đậm ở
miền Bắc và dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không
nhỏ trong các tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần
như là mục tiêu mà Chính phủ đang ưu tiên nhất. Vậy những hệ quả của việc
thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là gì?
Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất
Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương
mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc
lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng
tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy,
quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng
cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó,
cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền
đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng
khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị
đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. Tuy nhiên,
nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng
yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây
có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi
phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm
mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể
thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả
hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có
các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của
Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau
WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế
mà ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu
thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá
mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá.
Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên,
mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ
chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh.
Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.
Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc là:
Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh
dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 16
Âu và các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo
hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại
và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ
suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt tiền tệ, như
đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn
cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát
triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì
phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị
điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng trưởng
Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng
không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây
cũng là vấn đề xã hội không nhỏ.
Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp
Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi
sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư
là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều
này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển
vọng của thị trường này trong năm nay. Với một thị trường được xây dựng
trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường khó mà phát triển khỏe
mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo ra tỷ
suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường
Việt Nam hấp dẫn nữa. Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị
trường chứng khoán giảm giá về mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ
thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số nghiên cứu trong các năm
2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài là
những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader),
nghĩa là tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn
trong quá khứ, và thoát khỏi nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao.
Nhìn lại quá trình vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ
ràng vốn đổ vào nhiều trong những năm gần đây khi chúng ta trở thành
“ngôi sao đang lên”, còn trước đó, trong những năm trước 2002, nhiều quỹ
đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn thị trường rơi vào trạng
thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh tế suy
giảm tăng trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái
nhìn của nhà đầu tư nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị
bào mòn ít nhiều.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá
Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong tình hình lãi suất đô la Mỹ
(USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD so với
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 17
VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng
tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND
trong thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng
thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân hàng. Áp lực tăng
giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang
đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước
phát triển. Đứng trước tình hình này, có thể NHNN sẽ tiếp tục bị buộc phải
mua USD vào, và như vậy lại tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi để trung hòa
lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải tiếp tục phát hành tín phiếu,
trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó là chưa kể
chúng ta cần để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán “trung hòa”
này: mua ngoại tệ vào trong lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái
phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp lý”, thì kết quả là khoảng chênh lệch lãi
suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện hiện tại, khi mà khoảng
hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng đứng
vững trước sức ép phải bù đắp khoảng lỗ do chính sách “trung hòa” này?
Đánh giá chung
Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền
tệ cũng đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền
tăng giá, thị trường vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu
tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ,
chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát, để tăng trưởng thực sự mang lại
lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích chính sách này,
chúng ta sẽ nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó không mang lại lợi ích
thật sự mà chỉ mang tính ngắn hạn và không toàn vẹn. Trong bài viết tiếp
theo, chúng tôi sẽ đề cập đến những điều kiện để đảm bảo chính sách hiện
tại mang lại hiệu quả và đề xuất một số giải pháp đột phá.
II/ Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước
Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ
tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10%
chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các
biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình
chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu
dùng.
Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 18
Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/3/2008 về việc phấn đấu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững có nhắc tới một câu nói nổi tiếng của Milton Friedman -
Nobel kinh tế năm 1976 - rằng mặc dù do nhiều nguyên nhân, nhưng “lạm
phát luôn có nguyên nhân tiền tệ”. Nếu như Milton Friedman đã đúng khi
cho rằng lạm phát ở đâu và khi nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân
tiền tệ, thì một câu hỏi tự nhiên tiếp theo sẽ là tại sao một chính phủ lại chấp
nhận chính sách tiền tệ gây ra lạm phát - một trong những điều tối kỵ nhất
của điều hành vĩ mô.
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô
Nhìn vào những nước đã từng trải qua lạm phát cao sẽ thấy rằng,
lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền nhằm tài trợ
cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu
dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và
điều này đến lượt nó dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế
Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in tiền để
tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn
như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng
bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì nhà nước cũng đã có thêm
được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể đến “thuế lạm
phát” cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt
Nam còn do đầu tư công và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng
ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho
tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng, và “vòng xoáy đi
xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là
“dòng xoáy đi xuống” này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại
chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của
Thủ tướng yêu cầu “cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các
cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được thực hiện
một cách triệt để và nhất quán. Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì
nhóm giải pháp thứ nhất - thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu hóa đáng kể, và vì
vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn là kiềm chế lạm phát.
Dưới đây sẽ thảo luận thêm một số vấn đề liên quan đến tình trạng
thâm hụt ngân sách ở Việt Nam, sau đó bình luận một số biện pháp nhằm
thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ, và cuối cùng trình bày một số khuyến
nghị về chính sách.
Tại sao cần giảm thâm hụt ngân sách?
Tiểu luận tài chính tiền tệ
A3 - TCQTB - K46 19
Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức đáng báo
động. Theo số liệu chính thức, thâm hụt ngân sách của nước ta hiện nay là
5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi ngoài
dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam - theo cách tính quốc tế, không bao
gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán - lên tới 7%
GDP (Hình 1). Không những thế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong
mấy năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức cao, và đặc biệt tăng mạnh
trong năm 2007. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm
tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong
năm 2007chưa làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã
làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8%
năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối
với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm
phát kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ
trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt
ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy
trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ
Vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách
(hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến
mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua
đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ
ngân sách và tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư
kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi
thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông
qua DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã hội (Hình 2).
Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu
tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc
chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt
nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56%
tổng chi ngân sách năm 2007). Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là
hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì
còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do :
Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề
dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp
qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lạm phát ở Việt Nam.pdf