Mục lục
I. Cơ sở hình thành mối quan hệ về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Về mặt lí luận
2. Về mặt thực tiễn
II. Nội Dung về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
2. Những nội dung chủ yếu về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Hồ Chí Minh và Đảng giải quyết vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong suốt tiến trình Cách Mạng Việt Nam
4. Vận dụng về mối quan hệ về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện hiện nay
III. Kết luận
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Làm rõ mối quan hệ về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu rõ truyền thống yêu nước nồng nàn ,ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc không bao giờ mất đi ở nhân dân Việt Nam. Người cho rằng: “sự đầu độc có hệ thống của bọn Tư Bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng Cách mạng của người Đông Dương” (2)(3)(4)Hồi Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000.
. Đằng sau sự phục tùng tiêu cục, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sự bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.
Trên bình diện thế giới, Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc khảo sát ở cả 4 châu lục. Người nhận ra “dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”
. Vì vậy muốn giải phóng dân tộc mình cần đoàn kết với các dân tộc khác cùng cảnh ngộ. Người kêu gọi “vì hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” (4).
Nghiên cứu các nước đế quốc Hồ Chí Minh nhận thấy, chúng liên kết chặt chẽ với nhau để đàn áp thuộc địa. Chúng thực hiện nhất quán chính sách “chia để trị” đưa cả người thuộc địa sang đàn áp phong trào Cách mạng ở chính quốc. Từ đó Hồ Chí Minh phân tích: công nhân và lao động ở chính quốc cùng binh lính và lao động ở thuộc địa cần hiểu “họ đều là anh em cùng một giai cấp và khi tới lúc phải chiến đấu thì cả 2 bên đều phải cùng đánh bon chủ chung của mình, chứ anh em không nên đánh lẫn nhau”.
Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh thời đại chi phối sự phát triển xã hội loài người từ cuối nửa thế kỉ XX.
Sau chiến tranh thế giới 2, cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật và chủ nghĩa phát huy mạnh mẽ. Theo Hồ Chí Minh, thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cùng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và bản thân mình. Đó là yếu tố sức mạnh của thời đại cần tận dụng.
Từ những nhân thức lí luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đi đến kết luận Cách mạng Việt Nam phải kết hợp chặt chẽ với Cách mạng thế giới phải thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bởi vậy, tiến tới Cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã xác đinh: không có một sức mạnh thống nhất của cả nước, không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, công cuộc vân động giải phóng dân tộc khó mà thành công được. Như vậy, sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tiến trình Cách mạng Việt Nam là một yếu tố khách quan.
II. Nội Dung về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
1.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tự do, là ý thức tự cường, tự lực của nhân dân ta.
Năm 1941, vừa về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã cổ vũ sức mạnh dân tộc trong nhân dân. Người viết:
“Xét trong lịch sử Việt Nam
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông
Oanh oanh liệt liệt con rồng cháu tiên”
Khi kháng chiến chống thực dân Pháp, Người lại khẳng định: “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. đó là truyền thống quý báu của dân ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi và kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Vì vây, Người cho rằng: “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân ta đấu tranh cho độc lập tự do” 5.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại
Theo Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh của giai cấp vô sản, Cách mạng vô sản và Đảng tiên phong của nước, là lí luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac-Lênin, kinh nghiệm của Cách mạng tháng 10, là sức mạnh của các trào lưu trên thế giới phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng của dân tộc, là sức mạnh của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Nhận thức về thời đại của Hồ Chí Minh được hình thành từng bước, là kết quả của quá trình hành động thực tiễn trừ bình diện toàn thế giới mà đi đến tổng kết thành lí luận. Tất cả đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu, tổng kết, chỉ ra được những vấn đề cơ bản của thời đại, cũng như nhận thức được tầm quan trọng và nội dung kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thấy rõ đó là một bảo đảm cho thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
2. Những nội dung chủ yếu về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất: Đặt Cách mạng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó chặt chẽ với Cách mạng vô sản thế giới.
Hồ Chí Minh đã nắm bắt được chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại (thế giới đã có những thay đổi to lớn)
Cách mạng tư bản tự do đấu tranh đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc. Hệ quả là hình thành thuộc địa của chúng.
Thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga, đã mở đầu một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tình hình thế giới có những thay đổi căn bản, các dân tộc có bước trưởng thành lớn, họ hiểu được dân tộc học có mối quan hệ thế nào với thế giới và xác định hành động của mình phù hợp với thời đại.
Mặt khác, tiếp thu Chủ nghĩa Mac-Lênin giúp cho Hồ Chí Minh nhận rõ những hạn chế của cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc cuối thế kỉ 19 tới 20. Đồng thời, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường Cách mạng vô sản.
Người chỉ rõ “thời đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nữa phụ thuộc”. Bởi vậy, công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của Cách mạng vô sản.
Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có lien minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để tháng kẻ thù chung.
Khẳng định Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của Cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã hoạt động tích cực để gắn Cách mạng Việt Nam với Cách mạng thế giới. Người đã xác định rõ bạn bè của Cách mạng Việt Nam: “cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh thế giới đều là đồng chí của dân An Nam” 6. Người đề nghị với ban Phương Đông Quốc tế cộng sản cần “làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cải cách của cách mạng vô sản”. Mặt khác, người cũng đề nghị “làm cho khối tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho sự hợp tác thật sự sau này, chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp chủ nghĩa quốc tế giành thắng lợi cuối này”.
Thứ hai: Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cao chủ nghĩa yêu nước chân chính. Là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Người cũng đã suốt đời đấu tranh bền bỉ để củng cố, tăng cường tinh thần đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam với các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Hồ Chí Minh phân biệt rõ “tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần vị quốc của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Người nhận rõ đâu là thù và kêu gọi: “vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức” 7.
“Rằng đây bốn biển một nhà
Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”.
Người đấu tranh với các Đảng cộng sản Tây Âu còn hiểu sai, đánh giá thấp vị trí chiến lược của Cách mạng thuộc địa, vẫn chưa làm gì để giáo dục cho giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, tinh thần gần gũi với quần chúng lao động các thuộc địa, vẫn chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa.
Hồ Chí Minh tìm thấy cho dân tộc Việt Nam con đường Cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người “trong thời đại ngày nay, Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trên phạm vi thế giới, cách mạng giải phóng dan tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho các dân tộc được tự do , độc lập thật sự”. Bởi vậy, kết hợp lòng yêu nước với tinh thần quốc tế là phải phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với lòng yêu chủ nghĩa xã hội.
Như vậy: theo Bác, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi phải có đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỉ, chủ nghĩa so sánh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
Thứ ba: Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sựu giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ đồng thời không quên nhiệm vụ quốc tế cao cả của mình.
Với Người, phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc, coi nguồn nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy được tác dụng thông qua nguồn lực nôi sinh trong quá trình thực hiện sự kết hợp sức mạnh của 2 nguồn lực đó. Người nêu cao: tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã. “Một dân tộc không có tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Người nói với các dân tộc thuộc địa rằng: “công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Với nhân dân ta, Người nêu cao tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta” và khi đó góp phần “giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giái phóng hoàn toàn”. Muốn vậy, trước hết phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn.
Để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của Việt Nam với mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước của ta, Liên Xô-Trung Quốc có nhiều bất dồng, Cách mạng Việt Nam đã kiên trì đường lối đọc lập tự chủ, vừa thực hiện đoàn kết với cả Liên Xô và Trung Quốc. Chính phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm cho Liên Xô-Trung Quốc không thể không giúp đỡ Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam đoàn kết với Liên Xô-Trung Quốc lại là yếu tố góp phần vào việc củng cố sự đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam được củng cố và phát triển mạnh mẽ.
Tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ của thế giới, nhân dân Việt Nam cũng tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Hồ Chí Minh cho rằng: “giúp bạn tức là giúp mình”. Ngay ở Đông Dương, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo hình thành mặt trận nhân dân Đông Dương phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
Thứ tư: Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả các nước dân chủ”.
Trong hoạt động Cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân các nước trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thành công, Hồ Chí Minh khẳng định: chính sách ngoại giao của Chính Phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiết với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình. “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á Châu là một thái độ an hem, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”.
Ngay trong kháng chiến chống Pháp, khi phóng viên Mĩ hỏi: “sau khi đã độc lập, Việt Nam có hoan nghênh Tư bản ngoại quốc không?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời: “bất kì nước nào thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả 2 bên thì Việt Nam sẽ hoan nghênh, còn muốn mong đưa tư bản đến để rằng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt”.
Trong quan hệ quốc tế rộng mở, Người đã dành ưu tiên cho mối quan hệ với các nước láng giềng gần gũi trong khu vực, nhất là các nước chung biên giới.
Có thể thấy, với trí tuệ thiên tài, với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đức độ khiêm nhường, thái độ thiện chí. Bác đã vượt qua mọi khó khăn, trở ngại từ trong những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại để đưa ra được những đường lối, phương châm, đối sách, ứng xử đúng đắn phù hợp với tình hình và lịch sử cụ thể. Nhờ đó phát huy tối đa sức mạnh dân tộc trong sự kết hợp với sức mạnh thời đại đưa cách mạng Việt Nam thắng lợi to lớn.
3. Hồ Chí Minh và Đảng giải quyết vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong suốt tiến trình Cách Mạng Việt Nam
Ngay từ những năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm thành lập “Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế cộng sản cần có biện pháp cụ thể để đến Đại hộ VI (1928) quan điểm này trở thành sự thật. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Người quyết đinh thành lập: “Mặt trận độc lập đồng minh” cho tùng nước tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong thời kỳ 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, kể cả Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp, Đảng đã tạo nên lực lượng to lớn cho kháng cuộc chiến, từng bước đi tới thắng lợi, nhất là ở chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong thời kỳ 1954-1975, kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng nâng lên tầm cao mới bởi đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng thể để đánh thắng kẻ địch có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta mang tính dân tộc nên ngoại giao phải gánh vác một nhiệm vụ cực kỳ nặng nề là làm sao kết hợp được sức mạnh của thời đại với sức mạnh của dân tộc, thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch. Vì vậy, Đảng ta đã quyết định nâng ngoại giao lên thành nuột mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, ngang tầm với mặt trận quân sự và chính trị, phối hợp với quân sự và chính trị trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngoại giao đã hoàn thành được nhiệm vụ đó, đã tranh thủ được các nước ủng hộ ta, chi viện cho ta về vật chất cũng như tinh thần, tăng cường và củng cố hậu phương quốc tế của ta, đồng thời làm xói mòn hậu phương địch, cô lập địch về chính trị trên trường quốc tế. Willlam Duiker, một học giả, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, đã phải tự hỏi: “Làm thế nào mà người Việt Nam chiến thắng bằng cách duy trì một cuộc tiến công ngoại giao vượt trội hơn hẳn một quốc gia vốn được coi là hùng mạnh nhất thế giới”. Và, ông ta cho rằng: “Một trong những yếu tố dẫn đến chiến thắng đó là do các nhà lãnh đạo cộng sản có khả năng thao túng môi trường quốc tế theo hướng có lợi cho họ. Việc họ giành được sự hỗ trợ về ngoại giao và về quân sự đáng kể của cả Mát-xcơ-va lẫn Bắc Kinh, ngay cả trong những lúc xung đột Trung-Xô gay gắt nhất, đã góp phần ngắn không cho Hoa Kỳ sử dụng công nghệ vượt trội của mình để giành thắng lơi hoàn toàn trong chiến tranh ở Đông Dương. Đồng thời việc Hà Nội xử lý khéo léo vấn đề đàm phán hoà bình đã cô lập Hoa Kỳ trước dư luận và đạt được hậu thuẫn to lớn trên toàn thế giới đối với phong nghĩa ở miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ, hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao đã phát huy vai trò xung kích, cùng với toàn dân hình thành một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược rộng lớn chưa từng có trên phạm vi toàn cầu và được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, hình thành thế trận kết hợp vô cùng lợi hại tiến công quân thù. Kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị là đường lối chiến lược của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ, được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn đời đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông, từ cuộc kháng chiến chứng thực dân Pháp và nghệ thuật kết hợp đó trong kháng chiến chống Mỹ đã đạt tới trình độ đỉnh cao, đánh bại từng bước tiến tới đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Cuộc đàm phán Pa-ri mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, phản ánh giai đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt có tính quyết định giữa ta và Mỹ và với đường lối kháng chiến đúng đắn, kết hợp tài tình trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đân tộc và thời đại, chúng ta đã giành thắng lợi trong cuộc đọ trí và lực quyết định này với quân thù. Chiến thắng của quân và dân ta đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ (l2-1972) vào miền Bắc nước ta là đòn quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân vô điều kiện khỏi Việt Nam. Chúng ta đã thực hiện thành công quyết tâm mà Đảng, Bác Hồ đã chỉ ra là “đánh cho Mỹ cút” vào năm 1973; và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đã “đánh cho nguỵ nhào”, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước lên CNXH.
Tình hình chính trị thế giới ngày nay đã đổi thay so với thời kỳ nhân dân ta chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, bài học quý giá rút ra được từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Sức mạnh thời đại ngày nay thể hiện qua các xu thế lớn sau:
- Tất cả các nước phát triển hay đang phát triển đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Vị thế quốc tế của mỗi nước ngày càng tuỳ thuộc vào sức mạnh kinh tế hơn là sức mạnh quân sự. Các nước đều ý thức được rằng, muốn có điều kiện để giữ vững an ninh, ổn định thì trước hết tiềm lực kinh tế phải mạnh. Từ đó, lợi ích kinh tế trở thành động lực chính trong quan hệ đối ngoại cả về song phương và đa phương. Chính nhu cầu phát triển kinh tế vừa có động lực thúc đẩy các nước cải thiện và phát triển quan hệ hợp tác, vừa là nhân tố làm gia tăng sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước trên thế giới. Trật tự thế giới mới và các tập hợp lực lượng trong trật tự đó sẽ được tạo dựng không phải do chiến tranh, mà trên cơ sở kinh tế-chính trị là chính trị. Đẩy mạnh đa dạng hoá quan hệ quốc tế trở thành xu thế phổ biến của các quốc gia. Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng, đo đời sống kinh tế đã và đang được quốc tế hoá cao độ. Kinh tế thị trường trở thành phổ biến.
- Xu thế liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế ngày càng phát triển và là xu thế phổ biến, khách quan. Xu thế này mang lại những cơ hội mới cũng như những thách thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển và chậm phát triển. Trước làn sóng khu vực hoá và toàn cầu hoá, các nước vừa và nhỏ một mặt nâng cao ý thức độc lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc; mặt khác, tìm cách thích ứng với tình hình mới, tạo thế thuận lợi nhất cho mình để tham gia tích cực và chủ động vào quá trình phân công lao động quốc tế và quan hệ chính trị quốc tế
- Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trên thế giới. Nguy cơ chiến tranh thế giới tiếp tục giảm đi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa bá quyền, can thiệp từ bên ngoài, đang làm mất ổn định và tiềm ẩn những hậu quả khôn lường. Những năm đầu thế kỷ 21, trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá kinh tế với những tác động sâu sắc tới các lĩnh vực khác của đời sống quốc tế. Trào lưu nhất thể hoá khu vực và toàn cầu hoá kinh tế không chỉ cuốn hút các nước công nghiệp phát triển, mà cũng là mối quan tâm của các rước đang phát triển và chậm phát triển. Các nước đang phát triển và chậm phát triển đứng trước sự lựa chọn hết sức khó khăn, không hội nhập với khu vực và thế giới sẽ dẫn dện hệ quả tất yếu là bị loại ra khỏi cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu, với tất cả hậu quả của nói mà hội nhập tức là chấp nhận cuộc cạnh tranh không cân sức. Tuy nhiên, vì lợi ích phát triển tuyệt đại đa số các nước đang phát triển và chậm phát triển đều chấp nhận sự cạnh tranh này. Thực tế trên thế giới và ở nước ta cho thấy, nếu nắm vững những xu thế mới của thời đại và biết điều chỉnh chính sách phù hợp với xu thế thời đại thì sẽ có thêm thuận lơi về mặt khách quan; trái lại, nếu đi ngược lại hoặc tự tách mình khỏi xu thế chung, không coi trọng, tuân thủ những luật lệ nghiêm ngặt của nền kinh tế thế giới, thì sẽ rất nguy hại cho an ninh và phát triển của dân tộc. Nói cách khác, đây là sự vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới. Việc Đảng ta nêu cao ngọn cờ độc lập tự chủ, hoà bình và hợp tác để phát triển là thuận chiều với xu thế của thời đại, phù hợp với mục tiêu chung của nhân dân thế giới. Trong tình hình mới, chuẩn mực cao nhất trong vấn đề tập hợp lực lương trên thế giới không còn chủ yếu trên cơ sở ý thức hệ như trước nửa, mà xuất phát từ lợi ích quốc gia. Việc tập hợp này diễn ra một cách cơ động, linh hoạt, theo từng thời điểm, từng vấn đề cụ thể, theo sự trùng hợp lợi ích với từng nước hoặc nhóm nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, không câu nề đối tượng. Kết bạn với những đối tượng hợp tác cùng có lợi. Những xu thế trên tác động qua lại lẫn nhau tạo nên động lực cộng hưởng làm thay đổi sâu sắc nền chính trị và kinh tế thế giới. Một quốc gia biết lợi dụng những xu thế dó sẽ tạo thêm được sức mạnh và vị thế quốc tế cho mình, nếu tự tách mình ra hoặc đi ngược lại những xu thế đó thì sẽ gây nguy hiểm cho tiền đồ dân tộc mình. Thực tiễn đời sống chính trị quốc tế cho thấy, yếu tố chính trị và yếu tố kinh tế đối ngoại có tác động qua lại lẫn nhau mật thiết. Công tác chính trị đối ngoại có hiệu quả sẽ tạo môi trường chính trị thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại. Đồng thời, kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tác động trở lại, tạo thế và lực mới cho đất nước. Những năm đổi mới vừa qua, với chính sách đối ngoại thể hiện tính khoa học và cách mạng, nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Ta đã tạo được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ đối ngoại, phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, thế của ta chưa thật vững chắc và lực của ta nói chung còn yếu. Nước ta vẫn là một nước đang phát triển, trình độ phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật còn thấp, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Để biến những vấn đề có tính nguyên lý trên đây thành hiện thực, để có thể kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc, thành sức mạnh tổng thể có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề đầu tiên là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được tăng trưởng không ngừng. Phải làm sao chuyển nhanh thành hiện thực những khẩu hiệu chống tệ nạn tham thũng, tham ô lãng phí, chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống hằng ngày. Sức mạnh dân tộc chính là tổng hợp các nhân tố kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao và ý chí. Nói cách khác là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước luôn phù hợp với lòng dân.
4. Vận dụng mối quan hệ về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện hiện nay
Hiện nay tình hình thế giới có nhiều biến động, chứa đựng những yếu tố khó lườn. Khi mà trật tự đã thay đổi, trật tự mới chưa hình thành. Trong hình đó Đảng ta đã xác định: “nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội”. Để thực hiện thắng lợi này, cần vận dụng tốt những quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Điều đó đòi hỏi:
- Phải nắm vững bối cảnh hiện nay, gắn sự nghiệp đổi mới của Việt Nam với tiến trình cách mạng trên thế giới. Ngày nay, mặc dù Liên Xô và các nước xã hội chủ ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31682.doc