Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và phát triển kéo theo sự thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng thị trường nước ta còn là thị trường phát triển ở trình độ thấp, tính chất còn hoang sơ, quy mô còn nhỏ. Chúng ta mới chỉ có thị trường hàng hoá nói chung và về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ có thị trường này ở hình thức thuê mướn sức lao động còn thô sơ. Trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng lao động theo biên chế, thị trường vốn và thị trường tiền tệ còn kém phát triển, vẫn còn sử dụng lãi xuất tỷ giá và quan hệ tài chính do nhà nước quy định mà chưa có lãi xuất tỷ giá và tác dụng thực sự theo cơ chế thị trường, thị trường tư liệu sản xuất hầu như chưa hình thành một cách tự do.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lí luận Mac-Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng lí luận đó để xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Người mua và người bán tác động với nhau tạo ra giá cả thị trường. Giá cả thị trường chính là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán trên cơ sở thị trường, nó điều hoà quan hệ giữa người mua và người bán.
-Trong kinh tế thị trường thì quy luật giá trị là một quy luật rất quan trọng nó có tác dụng điều tiết nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở chỗ: giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá nghĩa là việc hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường. Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Nếu cung bằng cầu thì giá cả thị trường sẽ bằng giá trị thị trường. Và thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Khi một loại hàng hoá nào đó có cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị nên người sản xuất có nhiều lợi nhuận. Vì vậy, nhiều tư liệu sản xuất và lao động được tập trung vào ngành dó để sản xuất. Ngược lại, khi một hàng hoá nào đó có cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị nên một bộ phận sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất hàng hoá đó sẽ chuyển sang sản xuất hàng hoá khác. Nhưvậy các khu vực sản xuất sẽ giữ được một tỷ lệ nhất định trong sản xuất.
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị cũng điều tiết lưu thông hàng hoá tức là chi phối luồng vận động của hàng hoá. Hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao.
-Trong những giai đoạn khác nhau của sản xuất và lưư thông hàng hoá, sự hoạt động của quy luật giá trị cũng có những biểu hiện khác nhau :
+ Trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa tự do cạnh tranh thì giácả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất ( Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân ), do quy luật giá trị thì tổng giá cả bằng tổng giá trị.
+Trong giai doạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, giá cả xoay quanh giá cả độc quyền (Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền ), song vẫn không thoát khỏi sự hoạt động của quy luật giá trị vì tổng giá cả độc quyền vẫn bằng tổng giá cả hàng hoá.
3/. Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường có những ưu điển sau:
Một là cơ chế thị trường có thính năng động, mềm dẻo và thích nghi nhanh chóng. Nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế khiến các chủ thể kinh đáp ứng nhucầu của thị trườnh một cách nhanh nhất.
Hai là trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do vậy nó tạo diều kiện cho việc thoả mãn nhu cầu ngày càng nhiều của cácthành viên trong xã hội.
Ba là cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường buộc những người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, áp dụng những cách quản lý mới nhằm hạ hao phí lao dộng cá biệt của mình xuống tới mức thấp nhất có thể để hạ giá thành sản phẩm. Điều này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển và nâng cao trìng độ xã hội hoá sản xuất.
- Cơ chế thị trường có những nhược điểm sau :
Một là do mục đích chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp tàn phá và gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà hậu quả của nó khiến cho cả xã hội phải gánh chịu.
Hai là do sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Nó dẫn đến đối kháng về lợi ích kinh tế và dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Ba là cơ chế thị trường sẽ tạo ra khủng khoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đang đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong một thời gian dài lại có được tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ lệ thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
- Cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chiphốisự vận động của kinh tế thị trường nhưng cũng có một loạt những nhược điểm như khủng khoảng kinh tế chu kỳ, tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát cao ... Do vậy, Nhà nước phải tiến hành can thiệp vào nền kinh tế thị trường nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tiến hành ổn định nền kinh tế, phát triển và nâng cao hiệu quả của cơ chế thị trường, nhằm giải quyết các vấn đề công bằng xã hội và thực thi các chính sách xã hội. Nhà nước thực những diều này bằng cách sử dụng các công cụ diều tiết vĩ mô như luật pháp, các chính sách thuế, kế hoạch hoá, tài chính tín dụng và các công cụ khác.
4/. Lí luận của Lê- nin về kinh tế thị trường.
Trong thời kỳ nội chiến năm 1918 - 1920, Lê- nin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung của chính sách này là trưng thu lương thực thừa của nông dân, xoábỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và nhà nước... Chính sách này đã đóng góp vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xô Viết.
Tuy nhiên khi hoà bình được lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó không còn phát huy tác dụng mà trái lại chính sách này trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất, việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ đã làm mất tính năng động của nền kinh tế, tạo ra nhiều hậu quả nặng nề. Khủng khoảng kinh tế diễn ra sâu sắc. Trong bối cảnh đó, Lê- nin đã đưa ra đường lối phát triển kinh tế mới : " không tìm cách ngăn cấm hay bao vây bước phát triển của Chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường Chủ nghĩa tư bản nhà nước. Về phương diện kinh tế, đó là điều có thể thực hiện được bởi vì ở chỗ nào có những yếu tố tự do thương mại và Chủ nghĩa tư bản nói chung thì ở đó có thể có Chủ nghĩa tư bản nhà nước, dưới hình thức này hay dưới hình thức khác, trong chừng mực này hay trong chừng mực nọ. "8 Bàn về thuế lương thực, Lênin trang
Vận dụng đường lối này vào thực tiễn, Lê- nin đã đề ra chính sách Kinh tế mới nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới.
Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách này bao gồm :
- Thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lương thực. Theo chính sách này thì người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức nhất định trong nhiều năm. Số lương thực thừa còn lại của người nông dân được trao đổi mua bán tự do trên thị trường.
- Cho thương nhân mua hay thuê lại những xí nghiệp nhỏ mà trước đây đã bị quốc hưu hoá để tự do kinh doanh; củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, chuyển chúng sang chế độ hạch toán kinh doanh. Đồng thời Lê- nin còn chủ trương phát triển quan hệ hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh thủ vốn, kỹ thuật để phát triển kinh tế nước Nga
- Tổ chức lại thị trường và thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá tiìen tệ giữa nhà nước với nông dân, giữa thành thị với nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp.
Như vậy trong điều kiện hoà bình, nước Nga Xô Viết đã chủ trương khôi phục nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.
Chính sách Kinh tế mới của Lê- nin đã đánh dấu bước phát triển mới về lí thuyết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này thì nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân mà trước hết của nông dân là những vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quan điểm kinh tế này của Lê- nin vào các quan điểm kinh tế của mình, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay.
III/.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1/. Quá trình chuyển sang nền kinhtế thị trường ở Việt Nam.
1.1/. Thực trạng kinh tế xã hội nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường
- Đất nước ta đã và đang quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa thực dân nửa phong kiến với trình phát triển của lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
- Những đặc điểm xuất phát này đã ảnh hưởng tới nền kinh tế trường ở nước ta. Nền kinh tế ở nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhưng nền kinh tế vẫn ở tình trạng sơ khai chưa phát triển, còn mang nặng tính chất tự túc, tự cấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quan liêu Kinh tế chính trị ở nước ta còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nhiều tính tự cung tự cấp. Sự kém phát triển của kinh tế chính trị ở nước ta thể hiện ở những biểu hiện sau:
Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất trong các doanh nghiệp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và phát triển kéo theo sự thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng thị trường nước ta còn là thị trường phát triển ở trình độ thấp, tính chất còn hoang sơ, quy mô còn nhỏ. Chúng ta mới chỉ có thị trường hàng hoá nói chung và về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ có thị trường này ở hình thức thuê mướn sức lao động còn thô sơ. Trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng lao động theo biên chế, thị trường vốn và thị trường tiền tệ còn kém phát triển, vẫn còn sử dụng lãi xuất tỷ giá và quan hệ tài chính do nhà nước quy định mà chưa có lãi xuất tỷ giá và tác dụng thực sự theo cơ chế thị trường, thị trường tư liệu sản xuất hầu như chưa hình thành một cách tự do.
Như vậy thị trường còn thiếu và còn nhiều rối loạn cùng với tình trạng luật lệ nhà nước vừa thừa vừa thiếu vừa bất hợp lý, thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là môi trường bất lợi cho sự phát triển của thị trường. Trong khi đó, để đánh giá mức độ phát triển của bất kỳ nền kinh tế nào trước hết người ta nhìn vào thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tuy đã có định hướng lớn để xây dựng và phát triển thị trường đồng bộ nhưng trên thực tế còn chuyển biến rất chậm.
Thực trạng trên đây của thị trường nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan, đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp, nền kinh tế còn mang nhiều tính chất tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan còn do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Do sự thiếu nhất quán về chính sách thể chế, nhất là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đầu tư thương mại, tỷ giá lãi xuất, do những thủ tục hành chính phiền hà gây cản trở.
Điều cần thiết phải rút ra từ thực trạng của nền kinh tế thị trường nước ta là: Với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực đã xảy ra trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa đạt được những tiến bộ hơn hẳn trước đây và tạo ra khả năng đưa tới bước ngoặt quyết định. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày càng đầy đủ, thông suốt và thống nhất, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài.
-Cơ cấu nền kinh tế còn mất cân đối, kém hiệu quả. Nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ lẻ, phân tán kỹ thuật lạc hậu cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn còn mang nặng đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Lao động nông nghiệp vẫn chiếm hơn 70% dân số và các ngành nghề chưa phát triển. Về cơ bản cơ cấu kinh tế vẫn theo sự phân bố tự nhiên, chưa có các giải pháp hiệu quả để sớm hình thành các ngành vùng kinh tế trọng điểm. Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả.
-Năng xuất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Do trình độ cơ sở vật chất và công nghệ còn thấp kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém; cơ cấu kỹ thuật còn mất cân đối ; thị trường trong nước chưa phát triển… cho nên năng suất lao động trong xã hội và thu nhập bịnh quân tính theo đầu người ở nước ta còn thấp , làm dẫn tới sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản suất kinh doanh là điều khó tránh khỏi . Tình trạng này được thể hiện qua số liệu sau :
Theo số liệu thống kêcủa ngân hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập bình quân tính theo đầu người của nước ta so với các nước đang phát triển ở Đông Nam á vào loại thấp nhất.
Theo sự tính toán thì mức GNP/ người ở Việt Nam hiện nay là trên 200 U S D. Trong khi đó GNP/người năm 1990 của Trung quốc là 370 USD, Inđônêxia là 570USD, ấn độ là 350 USD, Philippin là 730USD, Thái lan là 1420USD, Malaixia 2320USD.
1.1.2/ ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp:
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế XHCN cho nên trong nhiều năm nước ta đã duy trì mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thể hiện ở quan hệ tổ chức hành chính và quan hệ kinh tế. Về quan hệ tổ chức hành chính đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo cơ chế tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng ( công nghiệp, thương nghiệp…..), kiểu quản lý như vậy làm nền kinh tế mang tính chất phân tán. Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua cấp phát, sản xuất kinh doanh được tiến hành gần như chỉ trong khu vực hành chính sự nghiệp.
Hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp hết sức nặng nề, nó làm xơ cứng các mối quan hệ kinh tế, điều này được thể hiện :
Một là, làm suy yếu triệt tiêu động lực kinh tế thậm chí gây ra tác động như khuyến khích ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực. Mục đích hoạt động kinh tế của cá nhân và doanh nghiệp không phải chỉ vì lợi nhuận như vốn có của kinh tế hàng hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước.
Hai là, sự tập trung chỉ huy theo nhiều chiều hướng đã gây ra sự gò bó vướng mắc làm cho cơ chế tập trung trở thành bất lực và buông lỏng cho thực tế tự phát.
Ba là,kinh tế chỉ huy đã làm cho các phạm trù của nền kinh tế hàng hoá vốn sống động, mềm dẻo như giá cả, lợi nhuận… bị hình thức hoá đến cao độ, không phản ánh các quy luật thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
Bốn là, các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc là do ý chí chủ quan bị thu hẹp phạm vi hoạt động , xem như không hợp pháp hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế.
1.2/ Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta:
Sự cứng nhắc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã gây ra nhiều phản ứng lại từ nền kinh tế như: trong nhà nước khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phương, trong thương nghiệp, công nghiệp thì các nhà máy xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế cấp phát giao nộp đã tự động xé rào, do thiếu vật tư vốn liếng, do sự bất lực của công cụ khoa học kiểu cũ, sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ chức. Mặt khác sau chiến tranh do nguồn viện trợ to lớn từ bên ngoài bị cắt giảm mạnh nên khủng hoảng kinh tế xã hội ở nước ta đã gay gắt nay càng gay gắt thêm.
Từ thực tế nền kinh tế xã hội đã đặt ra một cách nghiêm túc về những vấn đề lý luận buộc chúng ta phải xem xét, lý giải tạo động lực cho sự phát triển. Nhìn thẳng vào sự thật Đảng ta đang có những biện pháp uốn nắn sự lệch lạc trong phong trào công nghiệp hóa hợp tác hóa. Nghị quyết TW lần thứ 6 – khoá IV được đánh dấu như một cái mốc trong việc chuyển đổi cơ chế quản lý, cho sản xuất bung ra, thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ, cho tự do lưu thông. Chỉ thị 100 của Ban bí thư cho phép khoán sản phẩm trong nhà nước, quyết định 25/CP cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong các doanh nghiệp công nghiệp. Vấn đề giá cả cốt lõi của cơ chế cũ được coi là bước đột phá đầu tiên triển khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều chỉnh tiền lương 1985, bỏ phân phối theo định lượng, bù giá vào lương ở các tỉnh phía nam là những khám phá từ thực tế.
Đại hội lần thứ 6 của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang kinh tế thị trường. Tổng kết 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 6, nền kinh tế phát triển, khắc phục được sự suy thoái, đã có bước tiến triển mạnh mẽ. Đại hội 7 của Đảng đã nhất quán chuyển sang nền kinh tế thị trường với quan điểm khá triệt để “ Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng chính sách pháp luật và các công cụ khác. Xác định và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư dịch vụ tiền vốn sức lao động….thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới”. ( Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB Sự Thật năm 1991– trang 8 ).
1.3/ Thực chất của quá trình phát triển nền kinh tế VN sang kinh tế tị trường có định hướng XHCN:
1.3.1/ Từ sự phát triển của quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta có thể rút ra những kết luận sau:
Thực chất của việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trương có sự định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển đổi nền kinh tế còn mang nặng tính bao cấp, tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường cơ có sự quản lý của nhà nước.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của nước ta có sự khác biệt so với các nước Đông âu và Liên xô cũ. Những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không mang hình thái tự cấp tự túc như ở nước ta. Chính vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nó gần như đối lập với kinh tế tị trường. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
1.3.2/ Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới.Kinh tế mở là đặc điểm và xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ quốc gia nào cũng coi trọng. Trong điều kiện nước ta bài học về sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại lại được áp dụng trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế, chúng ta cũng có nhiều đổi mới quan trọng, chúng ta đã chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước trên thế giới theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong khi hoà nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt động ngoại thương cần áp dụng hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó cân nhắc và quyết định cụ thể xem nên sản xuất và cung ứng cho thị trường khu vực và thị trường thế giới những loại hàng hoá naò, với số lượng bao nhiêu từ đó xác định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp.
Tại nước ta, lợi thế so sánh bắt đầu được phát huy, cần khẳng bản sắc dân tộc và xác định khu vực mới tạo điều kiện tốt để hội nhập. Lợi thế so sánh của nước ta được thể hiện ở những mặt sau đây: nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, nguồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp, vị trí địa lý lãnh thổ thuận lợi. Đồng thời Nhà nước đã có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Chúng ta tiếp tục coi trọng các thị trường truyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào những thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông lâm thuỷ sản… Chú ý phát triển dịch vụ, vận tải hàng không, thông tin bưu điện quốc tế…
Xuất phát từ lợi thế và khả năng thực tế trong nước, phương hướng mở rộng kinh doanh quốc tế nên tập trung vào những vấn đề cơ bản:
-Nhà nước cần có chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát triển, thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài, ngăn chặn việc nhập khẩu những hàng hoá trong nước sản xuất được.
-Nhà nước cần duy trì sự ổn định về mặt kinh tế chính trị, xã hội nhằm tạo ra môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế hoạt động, qua đó thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
2/ Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở VN:
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung – hành chính quan liêu – bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. Đặc biệt cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội, được đại hội đại biểu Đảng cộng sản VN lần thứ VII thông qua vào năm 1991 cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của XHCN và những phương hướng quan điểm tổng quát về phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên vẫn phải phân tích sâu thêm bản chất đặc điểm được khái quát nói trên, để có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự rút ngẵn. Mặt khác thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH cho nên, sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh vừa là mục tiêu vừa là nội dung nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giầu một cách hợp pháp, dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân giầu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó hữ cơ , thống nhất, không tách rời , biệt lập.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân do dân vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân do dân vì dân, nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được thông qua thị trường. Các quy luật kinh tế hàng hoá, kinnh tế thị trường sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận. Quy định sự phận bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ kinh tế chính sách vĩ mô cùng với việc sử dụng các nguồn lực kinh tế của mình, Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ thống nhất.
Thứ năm, mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền tự chủ toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35028.doc