MỞ ĐẦU 3
PHẦN NỘI DUNG 4
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM . 4
1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó . .4
2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. . 5
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .6
1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . .6
1.1. Thời kỳ cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX: Tìm tòi và thử nghiệm cải cách cục bộ trong khuôn khổ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung . 6
1.2. Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự là đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước . .11
1.3. Những năm 1990: Dứt khoát chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .13
1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội khẳng định mô hình kinh tế nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . . 15
2. Đánh giá khái quát . .17
2.1. Nhận thức chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . .17
2.2. Nhận thức về vai trò và chủ trương phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .18
2.3. Nhận thức về phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường . .19
2.4. Nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . . .20
2.5. Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế . . . 20
2.6. Nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường . 21
2.7. Nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .21
III. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA . .21
1. Những thành tựu . 21
1.1. Thành tựu lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . .21
1.2. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội 27
2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân . .32
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .35
KẾT LUẬN .41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .42
42 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước (điện, xăng dầu,) và dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục. Các quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thực hiện. Cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá được mở rộng. Phạm vi giá cả hàng hóa do nhà nước quy định ngày càng thu hẹp. Các tổ chức sự nghiệp công lập được chuyển sang cơ chế tự chủ và việc cung cấp các dịch vụ công được xã hội hóa; giá các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục cũng từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá; chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng, từ hỗ trợ cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng hưởng thụ.
Đảng chủ trương phát triển đồng bộ, theo hướng hiện đại, vận hành thông suốt các loại thị trường. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ đa dạng, theo các phương thực giao dịch, mua bán ngày càng hiện đại (sàn giao dịch, siêu thị, thương mại điện tử,), bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng sau bán hàng; bảo vệ thị trường trong nước, không để nước ngoài thâu tóm. Phát triển thị trường tài chính đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh, cả thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tài chính phái sinh, thị trường cho thuê tài sản, mua bán nợ, thị trường các dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, tư vấn thuế Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa hệ thống tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất, làm cho đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển; yêu cầu việc phân bổ và sử dụng đất đai phải theo quy hoạch, kế hoạch, thông qua đấu thầu, đấu giá cạnh tranh để sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả. Phát triển thị trường sức lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm, phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động, bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và sử dụng lao động; hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, bảo hiểm, các thiết chế hòa giải, giải quyết tranh chấp lao động. Phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ. Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ sang cơ chế tự chủ; có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp, đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công nghệ. Tăng cường thông tin về các sản phẩm khoa học công nghệ; thành lập các tổ chức tư vấn, thẩm định, xác định giá trị để các sản phẩm khoa học công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị trường, gắn với bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
2.4. Nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ chỗ không được thừa nhận, rồi được xem chỉ là yếu tố hỗ trợ cho kế hoạch, vai trò, chức năng của thị trường được nhận thức ngày càng đầy đủ; thị trường được xác định đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực, xác định giá cả, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, lưu thông của hàng hóa, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thị trường. Từ chỗ Nhà nước làm tất cả, vừa quản lý kinh tế nhà nước, vừa trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước từng bước được đổi mới, yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường là xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch, thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng, cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư, phát triển; sử dụng các công cụ luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực của nhà nước để ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng và điều tiết kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng đối ngoại. Quản lý kinh tế của Nhà nước tách khỏi quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý kinh tế của Nhà nước tôn trọng, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động, đồng thời hạn chế những tiêu cực của nó. Cùng với nhận thức và giải quyết mối quan hệ Nhà nước và thị trường, vai trò của chủ thể xã hội được coi trọng. Quyền làm chủ của nhân dân, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với lĩnh vực kinh tế được luật pháp quy định; mở rộng thu thập ý kiến đánh giá của nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được nhận thức, xử lý ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.
2.5. Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế
Nhận thức của Đảng đã phát triển từ mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế tới chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; từ đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài tới ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực; nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước; gắn hội nhập quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Hệ thống luật pháp, chính sách được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với đòi hỏi và thực thi có hiệu quả các cam kết quốc tế, tận dụng các cơ hội, phòng ngừa, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ bên ngoài, xử lý các tranh chấp quốc tế về thương mại, đầu tư; đồng thời tích cực tham gia vào xây dựng các quy tắc thương mại, đầu tư quốc tế.
2.6. Nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
Định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu được Đảng đặt ra ngay từ khi xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (Đại hội VII) và nền kinh tế thị trường (Đại hội IX). Tuy nhiên, nhận thức về những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ được hoàn thiện từng bước. Đến hiện nay (Đại hội XII), những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế; Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
2.7. Nhận thức về yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng cần phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội để thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện; đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, công chức. Nhà nước cần phải thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của Nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đổi mới, cơ cấu lại tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm; đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nâng cao năng lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, đầu tư, thương mại. Xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về kinh tế. Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.
III. THÀNH TỰU, HẠN CHẾ TRONG THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Những thành tựu
1.1. Thành tựu lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Có thể nói, đây là thành quả to lớn và quan trọng trong nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư duy lý luận và quan niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước với mục tiêu không thay đổi là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta về toàn diện trên tất cả các mặt quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhằm bảo đảm phù hợp với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất luôn được ưu tiên phát triển để trở thành lực lượng tiên phong, mở đường phát triển kinh tế, đồng thời quan hệ sản xuất luôn được đổi mới hoàn thiện nhằm hỗ trợ cho việc giải phóng, khai thác có hiệu quả những tiềm năng kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhận thức và lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, mà là kết quả sáng tạo của sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quy luật phát triển. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân ta trong nhiều thập kỷ. Đồng thời, nó là kết quả của sự nắm bắt và nhận thức đúng quy luật phát triển, tính thời đại, có sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, đặc biệt là thực tiễn cải cách và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam và Trung Quốc. Có thể nói, sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua đánh dấu giai đoạn phát triển mới về trình độ phát triển tư duy lý luận của Đảng ta và khẳng định được con đường và mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp và có nhiều bất lợi.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa có tính đặc thù (định hướng xã hội chủ nghĩa).
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội; trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế, kinh tế thị trường không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm các yếu tố lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, rõ ràng là không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa có tính đặc thù (định hướng xã hội chủ nghĩa). Từ đó, có thể nói, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm nhân tố thứ nhất đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, còn nhóm nhân tố thứ hai đóng vai trò hướng dẫn, điều khiển, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định. Vì thế, có thể khẳng định rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn có những thuộc tính, những quy luật chung của kinh tế thị trường, nhưng nhất thiết phải có những đặc điểm riêng biệt của nó. Hay nói cách khác; mô hình của nền kinh tế nước ta hiện nay vừa mang “cái phổ biến” của nền kinh tế thị trường nói chung, vừa có đặc thù riêng.
Cái phổ biến đó là:
+ Các chủ thể kinh tế thị trường được tự chủ, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh theo pháp luật.
+ Thị trường và cơ chế thị trường là một trong những cơ sở quan trọng để phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý.
+ Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
+ Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước điều hành kinh tế vĩ mô.
Tính đặc thù: định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta:
Tính đặc thù này không phủ nhận các quy luật của kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định bản chất của nền kinh tế thị trường nước ta. Theo tinh thần của các Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường Việt Nam là:
Thứ nhất, mục tiêu chiến lước của sự phát triển kinh tế thị trường.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội quy định quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp lực và bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr85-85.
.
Nhưng không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và không thể có tăng trưởng kinh tế nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, xây dựng nền công nghiệp nội địa hiện đại, có sức cạnh tranh cao và thực hiện các mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện thế giới ngày nay, công nghiệp hóa không chỉ gắn với các mục tiêu, giải pháp có “tính chất truyền thống”, mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại và dựa trên các công cụ, giải pháp hiện đại. Theo nghĩa đó, công nghiệp hóa vừa phải là quá trình hiện đại hóa. Vì thế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được hiểu là quá trình công nghiệp hóa với các mục tiêu và giải pháp phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nó đòi hỏi công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những nước đi sau (như Việt Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình: 1/ Vừa xây dựng nền đại công nghiệp hiện đại; 2/ Vừa phải phát triển kinh tế tri thức. Đảng ta đã xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và một nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi lên nhanh, cần có sự phát triển tuần tự với sự phát triển nhảy vọt. Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”, một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản, mặt khác, đồng thời phải phát triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nắm bắt được xu hướng phát triển hiện đại và trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr.89
. “Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.87
.
Thứ hai, cơ cấu các chủ thể kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp được cấu trúc từ nhiều loại hình, hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó “chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản”
Từ các hình thức sở hữu ấy hình thành nên nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Đây là cấu trúc đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa:
Không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nếu trong nó chế độ công hữu không đóng vai trò nền tảng
Nó không loại trù các quan hệ sở hữu tư nhân và khu vực kinh tế tư nhân.
Kinh tế nhà nước chứ không phải là lực lượng kinh tế nào khác đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển các thành phần kinh tế khác.
Đồng thời với việc khẳng định vai trò của kinh tế nhà nước cần coi trọng vai trò của các thành phần kinh tế khác. Và mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính đáng trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường là phải xác nhận quyền sở hữu dưới dạng giá trị những đóng góp về tài sản, trí tuệ vào kinh doanh. Nhà nước phải bảo vệ bằng pháp luật quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp của các chủ thể kinh tế thị trường.
Thứ ba, về phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đặc trưng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
Xác định các chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của nền kinh tế thị trường, như: tốc độ tăng GDP/người; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm, về xóa đói giảm nghèo, về văn hóa xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh
Nâng cao chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong chế độ bảo hiểm xã hội, trong chính sách phan phối thu nhập, đồng thời có chính sách bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt (gia đình có công với cách mạng, thương binh, người tàn tật)
Do đó, phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi thực hiện hài hòa ba vấn đề sau đây:
Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể của kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế
Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo đóng góp về vốn, theo tài năng, trí tuệ, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội Trong đó, nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu. Như vậy, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức phân phối đan xen là tất yếu khách quan.
Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa giàu và nghèo mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội. Điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm đảm bảo công bằng, bình đẳng phúc lợi xã hội. Hai là, điều tiết phân phối thu nhập theo nguyên tắc của thị trường và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ tư, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, công bằng xã hội ngay từ đầu, trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng, tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển kinh tế ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam là những nội dung cấu thành của sự phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta chủ trương: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế làm cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.73
.
Trên thế giới hiện có những nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết vấn đề công bằng xã hội sau. Lại có những nước muốn dựa vào viện trợ nước ngoài, vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Còn ở nước ta, Đảng ta đã thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “nước dâng thuyền lên”, sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, tăng trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội, động viên khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói giảm nghèo. Quan điểm định hướng của Đảng ta về giải quyết các vấn đề xã hội là thực hiện tốt các chính sách xã hội như:
Chính sách lao động và việc làm – chính sách xã hội cơ bản;
Chính sách xóa đói giảm nghèo;
Chính sách an sinh xã hội, phải từng bước tạo ra “mạng lưới an toàn” gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người rủi ro bất hạnh và nhất là người có công với nước;
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội.
Hướng vào việc phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Thứ năm, nhà nước xã hội chủ nghĩa – nhà nước của dân, do dân, vì dân – quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện cơ chế đó sẽ đảm bảo tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện rõ ở các mặt cơ bản sau:
Một là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa – Nhà nước của dân, do dân, vì dân – đóng vai trò “nhân vật trung tâm và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
1/ Tạo môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;
2/ Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế - xã hội;
3/ Tổ chức. Đây là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_lich_su_kinh_te_viet_nam.doc