Tiểu luận Liên minh tiền tệ châu Âu

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU .2

I/ Cơ sở lý luận cho sự ra đời Liên minh tiền tệ châu Âu .3

1.1 Cơ sở chính trị .3

1.2 Cơ sở kinh tế .3

II/ Thống nhất tiền tệ châu Âu .5

2.1 Tiến trình thống nhất .5

2.2 Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất liên minh tiền tệ châu âu .9

2.2.1 Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động .9

2.2.2 Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất .11

2.2.3 Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá 12

2.2.4 Tạo lập một đồng tiền khu vực và thành lập Ngân hàng Trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất 13

III/ Lợi ích và chi phí của việc thống nhất đồng tiền chung châu Âu .13

3.1 Lợi ích .13

3.2 Chi phí .15

3.3 Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp – bộc lộ nhược điểm của EMU?.16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6810 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Liên minh tiền tệ châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến các vấn đề liên quan đến tiền tệ : tỷ giá và lãi suất. Sự kiện " mở cửa phía Đông " và thống nhất Đông - Tây Đức vào thời kỳ này là một trong các động lực quan trọng đưa đến hiệp ước Masstricht (năm 1990, thủ tướng Đức đã phải chấp nhận một yêu cầu mang tính lịch sử do tổng thống Pháp đề xuất: chia sẻ quyền lực tiền tệ để đổi lấy sự đồng ý thống nhất nước Đức của các nước đồng minh). Có thể nói đồng EURO là con đẻ của sự thay đổi sâu sắc bức tranh chính trị Châu Âu vào thời gian này. 1.2 Cơ sở kinh tế Đồng EURO là sự tiếp nối tất yếu của một thị trường thống nhất châu Âu từ năm 1993. Việc tự do hoá lưu thông hàng hoá, dịch vụ, sự vận động của vốn và sự đi lại của con người trong toàn lãnh thổ Châu Âu đòi hỏi phải có một phương tiện trao đổi thống nhất được điều tiết bởi một chính sách tiền tệ thống nhất. Đợt khủng hoảng cơ chế tỷ giá châu Âu vào năm 1992 - 1993 chỉ ra rằng : trong điều kiện này mọi cơ chế điều chỉnh tỷ giá đều trở nên kém hiệu lực và Grainville đã khẳng định " nếu không có đồng tiền chung duy nhất. thị trường thống nhất sẽ trở thành một thị trường bất công nhất ". Việc lưu hành một đồng tiền thống nhất cùng với việc xóa bỏ tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia thành viên tạo nên những động lực tiềm năng cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực. Bao gồm: Tăng cường tính cạnh tranh trên các thị trường hàng hóa và thị trường chứng khoán. Tăng tổng cầu trên toàn lãnh thổ châu Âu ( do mức giá cả hàng hóa giảm, phạm vi lựa chọn của người tiêu dùng tăng lên, mức lãi suất giảm làm cho giá vốn đầu tư bình quân giảm. Tạo nên môi trường đầu tư ổn định hơn với các mức rủi ro được giảm thấp nhất. Giảm chi phí giao dịch ( chi phí giao dịch ngoại hối giữa các nước thành viên – ước tính khoảng 0.4% GDP toàn Liên minh), tăng cường hiệu quả kinh tế chung. Việc thống nhất đồng tiền tệ thúc đẩy nhanh quá trình thống nhất kinh tế trong toàn khu vực tạo ra một vị trí cạnh tranh mới cho cộng đồng Châu Âu trên thị trường tiền tệ quốc tế. Sự khác biệt về tiền tệ giữa 15 quốc gia thành viên sẽ được loại bỏ khi đồng EURO thực sự được sử dụng tạo nên một thị trường tiền tệ khu vực thống nhất đủ mạnh để cạnh tranh với hai khu vực tiền tệ còn lại của thế giới là đôla Mỹ và yên Nhật. Triển vọng đồng EURO trở thành đồng tiền quốc tế là hoàn toàn khả quan theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế. Trước hết, khu vực EURO hội tụ các điều kiện nền tảng cho sự ổn định tiền tệ . Quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế để hội nhập theo tiêu chuẩn của hiệp ước 1992 đã cải thiện một cách cơ bản các điều kiện kinh tế vĩ mô của toàn khu vực khi xem đến mức lãi suất dài hạn, tỷ lệ lạm phát, cán cân thanh toán quốc tế và mức bội chi ngân sách. Bên cạnh đó các điều kiện tiên quyết của Liên Minh tiền tệ và quan điểm rõ ràng của ECB hứa hẹn một chính sách tiền tệ độc lập được điều tiết bởi một ngân hàng Trung ương độc lập trong việc theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả .Thứ hai, liên minh tiền tệ châu Âu, ngay từ khi thành lập chứa đựng khả năng chi phối thị trường xuất nhập khẩu, thị trường vốn và nhu cậu dự trữ quốc tế với các chức năng : phương tiện thanh toán, phương tiện dự trữ và phương tiện đầu tư. II. Thống nhất tiền tệ của Châu Âu 2.1 Tiến trình thống nhất tiền tệ của Châu Âu Năm 1970, lần đầu tiên về một liên minh tiền tệ Châu Âu được cụ thể hoá, dựa trên kế hoạch của Werner, đúc kết dự án Liên Minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu với một đồng tiền thống nhất trong tương lai, do các chuyên viên kinh tế lỗi lạc và thủ tướng Luxembourg Pìerre Werner soạn thảo. Lộ trình nhăm đến Liên minh vào năm 1980 thất bại, cũng vì sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1972. Thay vào đó, Liên minh tỷ giá hối đoái Châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là hệ thống tiền tệ Châu Âu. Đơn vị tiền tệ Châu Âu (European Currency Unit - ECU) ra đời như một đơn vị thanh toán vì mục đích này và được xem là tiền thân của đồng Euro. Nhưng mãi đến năm 1988, chủ tịch uỷ ban Châu Âu Jacques Delors đã lập ban soạn thảo báo cáo Delors, lên kế hoạch ba bước tiến tới thành lập Liên Minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu. 2.1.1 Giai đoạn 1 Bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993. Nội dung: Thực hiện hiệp ước Maastricht: Hiệp ước Liên hiệp Châu Âu, hay còn gọi là Hiệp ước Maastricht, ký ngày 7 tháng 12 năm 1991 tại Maastricht Hà Lan. Hiệp ước Masstricht là sự sửa đổi bổ sung của Hiệp ước Rome (1957) về cải cách trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nó tạo các điều kiện pháp lý cần thiết để hình thành các tổ chức nhằm thúc đẩy quá trình hình thành EMU, ví dụ cho phép hình hành NHTW châu Âu (ECB). Hiệp ước cũng quy định những điều kiện cụ thể để một quốc gia được coi là đủ tư cách gia nhập EMU. Giai đoạn này phải hoàn tất toàn bộ các công việc chuẩn bị trước khi Hiệp ước Masstricht có hiệu lực. Cụ thể, các rào cản còn lại đối với sự di chuyển vốn tự do giữa các nước trong Cộng đồng châu Âu và giữa Cộng đồng và các nước thứ ba phải đã được dỡ bỏ. Các nước bắt đầu chú trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế, bước đầu áp dụng các chương trình hội nhập nhiều năm với những mục tiêu cụ thể cho các biến số về lạm phát và ngân sách. Các chương trình này chịu sự đánh giá của Hội đồng các Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính (ECOFIN) có mục tiêu là nhằm đảm bảo duy trì lạm phát thấp, tài chính nhà nước vững mạnh và ổn định tỷ giá hối đoái giữa các nước thành viên - theo đúng yêu cầu của Hiệp ước Masstricht, nhằm chuẩn bị cho việc phát hành đồng Euro làm đồng tiền chung của Cộng đồng. Tóm lược lại, giai đoạn này bao gồm 2 nội dung chính: Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập. Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung. => Sau giai đoạn này,việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. 2.1.2Giai đoạn 2 (1994-1999) Bắt đầu ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày 31/12/1998. Nội dung: tiếp tục chuẩn bị cho các nước thành viên áp dụng đồng tiền chung. Trong giai đoạn này đã thành lập tiền thân của ngân hàng trung ương châu Âu là Viện Tiền tệ châu Âu (EMI). Nhiệm vụ chính của EMI là: Cụ thể hoá các khuôn khổ pháp lý, thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết khác để ECB thực hiện nhiệm vụ của mình kể từ đầu giai đoạn 3. Chịu trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình thành EMU và tư vấn cho các ngân hàng các quốc gia thành viên về mặt này. Tháng 12/1995, Hội đồng châu Âu nhất trí tên của đơn vị tiền tệ chung của Liên minh là EURO. Tháng 12/1996, EMI đã hoàn thành dự thảo các yếu tố nền tảng cho cơ chế tỷ giá mới ( Exchange rate mechanism – ERM II ) và được thông qua vào tháng 6/1997. Cùng thời gian này, thiết kế về mệnh giá của đồng EURO đã được thông qua. Ngày 2/5/1998, Hội đồng họp với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia, bỏ phiếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro bắt đầu từ giai đoạn 3 và 11 nước thành viên đủ tiêu chuẩn đã được chọn. Tỷ giá chuyển đổi song phương giữa các đồng tiền của các quốc gia thành viên được ấn định căn cứ vào cơ chế tỷ giá của Hệ thống tiền tệ châu Âu ( Europian Moneytary System – EMS). Đồng thời, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ban giám đốc điều hành của Ngân hàng trung ương châu Âu ( Europian Central Bank - ECB) được chỉ định. Tháng 6/1998, ECB được thành lập. ECB cùng các ngân hàng Trung ương quốc gia hình thành nên hệ thống ngân hàng Trung ương châu Âu (ESCB). EMI đã hoàn thành nhiệm vụ của nó và chuẩn bị ngừng hoạt động. 2. 1.3 Giai đoạn 3: Đồng Euro đi vào lưu thông Bắt đầu ngày 1/1/1999. Liên minh tiền tệ châu Âu EMU bắt đầu đi vào hoạt động cùng với việc thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khu vực. Từ năm 1999 đến 2002 :Đây là giai đoạn quá độ. Đồng Euro trở thành đồng tiền theo đúng nghĩa của nó và tỷ lệ chuyển đổi các đồng tiền quốc gia của các nước thành viên áp dụng đồng Euro được ấn định không thay đổi. Các đồng tiền quốc gia ban đầu sẽ lưu hành song song với đồng Euro. Đồng Euro sẽ thay thế đồng ECU với tỷ lệ 1:1. Một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế tỷ giá 2, ERM2 - gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện gia nhập với đồng Euro cũng sẽ đi vào hoạt động nhằm thúc đẩy sự hội nhập của các nước chưa đủ điều kiện với các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực đồng Euro, đồng thời giúp đảm bảo sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu Âu nói chung. Vào 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro chính thức được đưa vào lưu thông, tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu rút lui khỏi lưu thông. 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế toàn bộ đồng tiền quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2 và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời kỳ này đồng loạt chính thức kết thúc vào ngày 28/2. Bảng 1. Công việc chuẩn bị cho đồng EURO từ năm 1998 5/1998 1/1/1999 1/1/2002 1/6/2002 30/6/2002 -Lựa chọn các nước thành viên tham gia. -Thành lập ECB. -Thị trường không chính thức của đồng EURO bắt đầu hoạt động. -Xác định tỷ giá chuyển đổi. -Đồng EURO được ban hành. -Thực hiện chính sách tiền tệ thống nhất. -ECB bắt đầu hoạt động, các khoản nợ của chính phủ được tính bằng EURO. Các hoạt động tài chính bán buôn sử dụng EURO. -Thời hạn cuối cùng cho sự giới thiệu đồng EURO giấy và xu. -Các hoạt động bán lẻ bắt đầu sử dụng EURO trên qui mô lớn. Tiền giấy và xu bản địa cùng tồn tại song song với tiền giấy và xu EURO. Đồng tiền của các nước thành viên bị loại bỏ hoàn toàn. 2.2.Điều kiện hình thành một liên minh tiền tệ rút ra từ quá trình thống nhất tiền tệ Châu Âu: 2.2.1 Hình thành 1 thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động: Nhìn lại lịch sử phát triển của Liên minh tiền tệ châu Âu, chúng ta thấy rằng Liên minh châu Âu đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Đó là: khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động. - Với châu Âu, hai giai đoạn đầu: khu vực thương mại tự do và liên minh thuế quan được hoàn thành 1 cách tương đối nhanh chóng và dễ dàng, cụ thể : Khoảng năm 1960, các nước cam kết cắt giảm, xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan với nhau. Tính đến ngày 1/7/1968, tất cả các hàng rào thuế quan về số lượng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ, Việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật thì gặp nhiều khó khăn hơn do đó, dỡ bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Phải đến giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực này. - Giai đoạn "thị trường chung" (ngoài việc tự do hóa thương mại, tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, liên minh thuế quan còn cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên được coi là chính thức hoàn thành ngày 31/12/1992. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung. 2.2.2 Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất: Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Mục đích của hiệp ước Masstricht : nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh. Nội dung : Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. => Hai tiêu chí (1) và (2) chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn định. Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác. => Tiêu chí (3) sẽ buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ không chỉ là lợi ích của nước mình. Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60%. => Mục đích của tiêu chí (4) là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó. Bên cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh. à Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung. 2.2.3 Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta có thể thấy cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau: Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ thống Bretton Woods cũng như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước châu Âu. Trên thực tế, các nước đều đã nhận thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tài chính và tiền tệ và đã thành lập một số uỷ ban nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội đồng các Bộ trưởng Tài chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của Cộng đồng... Tuy nhiên, sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải rút lui khỏi cơ chế "Con rắn tiền tệ" và thả nổi đồng tiền của mình. Giai đoạn hai được đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992- 1993. Giai đoạn này, các nước châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực liên kết tỷ giá hối đoái, và dần dần đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ châu Âu cũng gặp phải những vấn đề hệt như giai đoạn "Con rắn tiền tệ", các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa cho đồng tiền các nước trong hệ thống. Một số nước, cụ thể như Pháp, đã sử dụng tỷ giá hối đoái so với đồng D-Mark làm phương tiện chính để ổn định kinh tế vĩ mô. Các lần điều chỉnh tỷ giá trở nên thưa hơn và kể từ năm 1987 cho đến cuộc khủng hoảng của ERM vào năm 1992 thì không có lần điều chỉnh tỷ giá trung tâm nào. Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%. Giai đoạn cuối cùng bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu chung về các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict. Việc biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá hối đoái, giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công đầu cơ. 2.2.4 Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành Ngân hàng Trung ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất. Liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. Ở Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng ECU không chỉ được sử dụng để tính toán mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng. Ngày 1/1/1999 đồng Euro đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức năng của một đồng tiền, nó được thay thế cho đồng ECU với tỷ lệ 1:1 . Mục tiêu quan trọng nhất của ECB là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, vì EU cho rằng sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm, và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được các mục tiêu chung của Cộng đồng. Ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được sự độc lập đó thì mục tiêu ổn định giá cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thực tế, hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không chịu sức ép của một thế lực chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi ích ngắn hạn của họ. III. Lợi thế và chi phí của việc thống nhất đồng tiền chung Châu Âu 3.1 Lợi ích của việc thống nhất đồng tiền chung Châu Âu Kích thích phát triển thương mại trong nội bộ EU. Việc dỡ bỏ hàng rào thuế qua khi tham gia EU góp phần kích thích tăng khối lượng thương mại trong nội bộ EU từ đó đẩy mạnh phồn vinh kinh tế của các nước thành viên. Khi Đồng tiền chung ra đời, hạn chế chi phí giao dịch liên quan đến chuyển đổi đồng tiền khác nhau (bao gồm chi phí thời gian và chi phí hoa hồng trả cho Ngân Hàng). Theo như tính toán thì khoản tiết kiệm hàng năm từ các giao dịch này vào khoảng 0,4% GDP của EU. Các yếu tố sản xuất được phân bổ hiệu quả. Khi xóa bỏ hoàn toàn các biện pháp kiểm soát tỷ giá và không có sự biến động của tỷ giá ( sử dụng đồng tiền chung) làm cho nguồn vốn được phân bổ hiệu quả hơn nhiều trong nội bộ các nước EU. Khi lương và thu nhập được tính bằng đồng tiền chung sẽ được phân bổ tốt hơn, người lao động sẽ tự do di chuyển từ khu vực có năng suất lao động thấp đến khu vực có năng suất lao động cao hơn. Tiết kiệm dự trữ ngoại hối và lợi ích từ việc phát hành tiền. Khi đồng tiền chung ra đời các nước EU giảm được ít nhất là số dự trữ ngoại hối dùng để giao dịch trong nội bộ các nước EU. Hơn nữa so với các đồng tiền riêng lẻ thì đồng tiền chung có xu hướng biến động ít hơn so với đồng tiền của nước thứ 3. Điều này xảy ra là vì mức hoạt động trung bình của nền kinh tế được tính chung bằng 1 đồng tiền thường ổn định hơn so với từng nền kinh tế đơn lẻ đối với đồng tiền riêng của mình vì vậy nhu cầu dự trữ ngoại hối đối với các nước sử dụng đồng tiền chung giảm xuống. Tiết kiệm chi phí hành chính trong kinh doanh liên quan tới quản lý rủi ro ngoại hối và liên quan đến hoạt động kinh doanh sử dụng những đồng tiền khác nhau của EU. Mọi khoản vay của chính phủ thành viên đểu được thực hiện bằng đồng tiền chung EURO làm cho thị trường trái phiếu chính phủ trở nên linh hoạt hơn, giảm chi phí giao dịch. Thị trường cổ phiếu công ty hợp lý hóa hơn khi tất cả chính phủ của công ty đều được niêm yết bằng 1 đồng tiền chung khiến giao dịch trên thị trường cổ phiếu được hiệu quả, kích thích doanh số giao dịch trên thị trường này. Do thị trường tài chính hoạt động hiệu quả, chính phủ và công ty giảm được chi phí tiếp cận nguồn vốn trên thị trường tài chính. Giá cả trở nên trung thực rõ ràng hơn, khi tất cả hàng hóa và dịch vụ trong khu vực EU đều được yết giá bằng EURO gây ra khó khăn đối với các nhà sản xuất mong muốn duy trì chênh lệch giá giữa các thị trường khác nhau. Quy luật canh tranh buộc các công ty đa quốc gia phải áp dụng chính sách định giá hàng hóa thống nhất trên cơ sở mức giá thấp nhất trong khu vực EU khiến cho người tiêu dùng và DN được lợi, trong khi đó các công ty đa quốc gia giảm lợi nhuận. 3.2 Chi phí của việc thống nhất đồng tiền chung Châu Âu Mất quyền tự chủ trong hoạch định chính sách tiền tệ khi có đồng tiền chung có 1 hệ thống tỷ giá cố định không điều chỉnh,việc ra đời đồng tiền chung,không hạn chế trong chu chuyển vốn sẽ dẫn đến hình thành mức lãi suất ngắn hạn thống nhất giữa các thành viên.Mức lãi suất này có thể sẽ ko thích hợp với một số quốc gia,đây là tình trạng mất tự chủ trong chính sách tiền tệ của các quốc gia thành viên. Mất tự chủ trong chính sách kinh tế vĩ mô, các quốc gia có lựa chọn về mức độ lạm phát-công ăn việc làm khác nhau.Có những nước chấp nhận mức lạm phát cao để giải quyết vấn đề việc làm, cũng có nước muốn kìm hãm mức lạm phát ở mức vừa phải và chấp nhận đánh đổi bằng tỷ lệ thất nghiệp cao hơn. Khi tham gia liên minh tiền tệ một trong những yêu cầu đối với các thành viên là phải áp dụng một chính sách kinh tễ vĩ mô nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động kinh tế. Điều này gây ra sự mất tự chủ của các nước thành viên khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên điều này chỉ xảy ra trong ngắn hạn, còn trong dài hạn, lạm phát không tác động đến thất nghiệp ( đường cong phillip thẳng đứng). Bất bình đẳng khu vực trong việc 1 số quốc gia thu được lợi ích nhiều,1 số quốc gia thu được lợi ích ít hơn. Nó kích thích vốn và lao động di chuyển từ khu vực(quốc gia) có năng suất lao động thấp đến nơi có năng suất lao động cao.Điều này tạo ra hậu quả xã hội khá nghiêm trọng vì lượng lượng lao động ở đây là lao động chính có tầm quan trọng trong khu vực. Chi phí thời kỳ quá độ vì khi quyết định sử dụng đồng tiền chung các quốc gia thành viên phải chịu chi phí thời kì quá độ bao gồm chi phí thu hồi đồng bạc hiện hành, in đồng bạc chung ,thay đổi hệ thống thông tin phù hợp với đồng tiền chung. 3.3 Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp – bộc lộ nhược điểm của EMU ? Cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp đầu năm 2010 đã phần nào bộc lộ ra những nhược điểm của Liên minh tiền tệ Châu Âu, qua đó cho người ta thấy rằng Liên minh tiền tệ Châu Âu không phải vẫn vững chắc như người ta vẫn nghĩ. Tuy chỉ chiếm khoảng 3% GDP của 16 nước thành viên Eurozone nhưng cuộc khủng hoảng ngân sách của quốc gia bên bờ Địa Trung Hải này có ảnh hưởng không nhỏ tới tính ổn định và thậm chí số phận của đơn vị tiền tệ châu Âu. Thêm một lần nữa những nghi ngại về quá trình nhất thể hóa một Liên minh châu Âu (EU) với 27 thành viên lại được nhắc đến. Nhìn lại, khi gia nhập EU năm 1981, Hy Lạp là quốc gia thứ 10 và cũng là quốc gia nghèo nhất trong Liên minh. Để hội đủ điều kiện bước vào Eurozone, Athen đã "nhào nặn" chính sách tài khóa với hy vọng được các thành viên chia sẻ gánh nặng cán cân ngân sách. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Tự chủ về tài khóa đồng nghĩa với việc Hy Lạp phải tự giải quyết những khó khăn của mình. (So sánh thâm hụt ngân sách (thanh màu đỏ) và nợ (thanh màu vàng) của Hy Lạp với một số quốc gia châu Âu trong năm 2009) Hiện tại, Hy Lạp hầu như không còn khả năng trả khoản nợ khổng lồ (lên tới 113% GDP) vì ngân khố quốc gia cạn kiệt. Giới đầu tư đang khăn gói ra đi, sản xuất gần như ngưng trệ. Nếu sự việc dừng lại ở đây thì cùng lắm Hy Lạp sẽ giống như Thái Lan năm 1997 hay Argentina năm 2001, nghĩa là phải tiếp tục thắt lưng buộc bụng, phá giá đồng bạc và thực hiện lời khuyên của các định chế tài chính quốc tế để tái tạo nguồn tài chính. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy vì Hy Lạp nằm trong EU và đang sử dụng đồng Euro của khối. Sự sụp đổ của Hy Lạp sẽ kéo theo sự đổ vỡ của hàng loạt các quốc gia EU như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland, Bỉ và Italia. Chẳng hạn như Bồ Đào Nha, quốc gia nghèo nhất trong khu vực đồng euro, đã chịu cảnh đình trệ trong hàng năm trời và là minh chứng cho thấy : gia nhập khu vực đồng euro không có nghĩa là sẽ chữa được bách bệnh (Lãi suất trái phiếu Chính phủ Hy Lạp từ tháng 9/2009 đến nay (%) Từ cuối năm 2009, giới tài chính quốc tế đã báo động về "sức khỏe" tài chính của những quốc gia này và dự báo về một cuộc vỡ nợ khổng lồ khó tránh khỏi nếu EU không cố gắng điều chỉnh khả năng trả nợ và giảm thâm thủng ngân sách. Hệ lụy sau đó là Eurozone có thể bị tan vỡ và đồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLiên minh tiền tệ châu Âu.doc
Tài liệu liên quan