MỤC LỤC TRANG
Lời mở đầu 1
1. Tính tất yếu của lạm phát 3
1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát 3
1.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp 4
1.3. Thiểu phát và tác hại 5
1.4. Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát 6
2. Lợi ích của lạm phát 8
2.1. Bốn lợi ích của lạm phát 8
2.2. Những ai có lợi từ giá cao của lạm phát? 8
2.3. Lạm phát vừa phải tốt cho bạn? 9
2.4. Lạm phát mỡ của chủ nghĩa tư bản 9
3. Chính sách mục tiêu lạm phát 10
3.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách mục tiêu lạm phát 10
3.2. So sánh CSMTLP của một số nước trên thế giới 11
3.3. Đánh giá khả năng áp dụng CSMTLP ở Việt Nam hiện nay 13
3.4. Những đề xuất nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng CSMTLP ở Việt Nam 14
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6323 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lợi ích của lạm phát và việc sử dụng chính sách mục tiêu lạm phát để điều chỉnh lạm phát theo hướng có lợi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
r (ADF)
I
D I
G
D G
ADF-statistic
-0.1405
-2.9729**
-0.4677
-24.3722*
Chó thÝch: * và **: có ý nghĩa thống kê tại các mức 1% và 5%
KÕt qu¶ kiÓm ®Þnh cho thÊy, c¸c chuçi G và I kh«ng dõng, tuy nhiªn c¸c chuçi
sai ph©n DI và DG là chuçi dõng, c¸c dÊu hiÖu kh¸c còng cho cïng nhËn ®Þnh
như trªn. Như vËy, biÕn I và G là liªn kÕt bËc nhÊt (I(1)).
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp:
Hầu hết mọi người vẫn luôn nghĩ rằng một nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát bằng không là một nền kinh tế “hoàn hảo”. Nhưng sự thật có phải như vậy? Đường cong Phillips biểu thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát.
Trong thực tế, các nhà hoạch định chính sách luôn phải “điên đầu” để quyết định sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn: lạm phát thấp thì thất nghiệp cao và ngược lại. Mối tương quan này nảy sinh vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy lên tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế.
Thiểu phát và tác hại:
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Biểu hiện:
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:
Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào tình trạng thiểu phát.
Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm.
Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).
Nguyên nhân:
Nguy cơ thứ nhất có thể xuất phát từ việc áp dụng các giải pháp chống lạm phát quá liều, chẳng hạn như thắt chặt tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu quá mức.
Thứ hai có thể là việc sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát một cách quá cứng nhắc như trực tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng.
Nguy cơ thứ ba thường đến từ những sai lầm trong điều hành vĩ mô[1]..
Hậu quả: Hậu quả của thiểu phát nghiêm trọng không kém gì lạm phát.
Ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu vì các thị trường lớn đều tiết giảm nhu cầu.
Sức tiêu thụ nội địa không tăng do luồng cung tiền tệ giảm, trong khi xuất khẩu kém. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, hàng không thể xuất trong khi cầu nội địa giảm, hàng không tiêu thụ hết, giá cả sẽ giảm, sản xuất đình đốn.
Một số tình huống thiểu phát ở Việt Nam:
Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây, CPI ở mức âm".
Ba lý do Mỹ nên thúc đẩy lạm phát
Fed nói sẽ làm tất cả để kích thích nền kinh tế, thậm chí kể cả việc khiến lạm phát gia tăng. Và dưới đây là những lý do cho phép Fed có thể hành động như vậy.
Chắc chắn người dân Mỹ sẽ không thoải mái gì khi phải chi trả nhiều hơn cho sinh hoạt phí hàng ngày trong tình trạng thâm thủng ngân quỹ và thiếu hụt việc làm hiện nay.
Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học lập luận rằng việc thúc đẩy lạm phát theo một tỷ lệ vừa phải sẽ giúp kích thích nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại.
Chính sách tiền tệ nới lỏng không phải bao giờ cũng có tác động tích cực. Trên thực tế, nó thường khiến người dân cảm thấy mình “nghèo đi” bởi giá cả mọi mặt hàng từ ô tô cho đến ti vi đều tăng lên.
Mặt khác, một tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ làm đồng đô la giảm dần giá trị và ăn mòn tiền gửi tiết kiệm trong ngân hàng, do đó gián tiếp buộc người dân tiêu tiền càng sớm càng tốt.
Mặc dù chính sách này hiếm khi mang lại tác dụng, song trong một bài báo gần đây, James Surowiecki, cây bút của tờ The New Yorker, đã chỉ ra rằng lạm phát thực sự đã có lúc là động lực nâng đỡ nền kinh tế Mỹ trong quá khứ.
Sau Thế chiến thứ II, nước Mỹ đã có một khoảng thời gian chứng kiến sự gia tăng liên tục của mặt bằng giá cả làm cho nợ công giảm xuống mức có thể khống chế.
Surowiecki nhận xét: “Thúc đẩy lạm phát có lẽ không phải là một chính sách tốt, nhưng nó là chính sách đúng đắn”. Dường như Fed đang dần bị thuyết phục với biện pháp này.
Mới đây, Fed tuyên bố rằng họ sẵn sàng kích thích lạm phát nếu điều đó thực sự cần thiết để “giúp nền kinh tế phục hồi và lạm phát được điều chỉnh hợp lý qua từng giai đoạn thích hợp với sứ mệnh của nó”.
Cây bút Colin Barr của Fortune đã chỉ ra rằng thông điệp của Fed hàm chứa quyết tâm khá mạnh mẽ khi đây là lần đầu tiên giới chức thừa nhận ảnh hưởng của việc giảm lạm phát buộc họ phải đẩy giá cả lên.
Dưới đây là 3 lý do giải thích tại sao lạm phát có thể đem lại sự khởi sắc cho nền kinh tế:
Giảm bớt nợ nần
Tình hình tài chính của các hộ gia đình Mỹ đang rất tồi tệ, và đây là một trong những nhân tố chủ yếu cản trở đà hồi phục kinh tế.
Chính hành động chi tiêu phung phí của người tiêu dùng trong nhiều năm trước đây đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính, mà giờ đây đa số họ đang trở thành nạn nhân của nó với gánh nặng nợ nần khổng lồ.
Gần 1/4 số người sở hữu nhà đang nợ nhiều hơn giá trị ngôi nhà của họ, tính theo giá thị trường hiện nay. Không những thế, giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình đang ngày càng suy giảm: riêng trong quý II năm nay, nó đã hao hụt tới 1,5 nghìn tỷ USD.
Nếu như lạm phát xảy ra, giá cả được điều chỉnh tăng thì rõ ràng giá trị khối tài sản này sẽ được cải thiện. Thêm vào đó, tiền lương cũng sẽ tăng giúp cho người dân dễ thở hơn với những khoản nợ đang thúc giục.
Trên hết, tác động lớn nhất của lạm phát là giá trị tương đối của gánh nặng nợ sẽ giảm đi khi mặt bằng giá cả hàng hóa tăng lên.
Tất nhiên, khoản nợ công khổng lồ cũng sẽ giảm bớt phần nào, tuy rằng đa số các nhà kinh tế dự đoán nó vẫn sẽ gia tăng trong năm tới.
Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm hiện đang ở mức 2,75% và được dự báo sẽ tăng lên 3,5%, thậm chí 1/3 số chuyên gia trong cuộc điều tra của CNN cho rằng lãi suất sẽ còn lên tới 4%.
Dù không thể xóa bỏ hoàn toàn nỗi lo lăng về nợ nần, song việc kích thích lạm phát sẽ giúp nới lỏng những ràng buộc mà chính phủ và người dân đang phải gánh chịu.
Kích thích chi tiêu
Trong hoàn cảnh tỷ lệ tiết kiệm của người dân và doanh nghiệp ở mức cao bất thường như hiện nay, một “cú hích” nhằm vào chi tiêu và đầu tư chính là những gì nền kinh tế Mỹ thực sự cần để có thể bứt phá.
Một “liều thuốc” lạm phát vừa phải chính là tác nhân tạo ra cú hích đó.
Nếu người tiêu dùng dự đoán giá cả tăng trong tương lai thì họ sẽ chọn giải pháp tiêu tiền sớm để có lợi hơn, bởi đồng tiền nhàn rỗi ngày càng giảm giá trị tương đối. Hay nói cách khác, gia tăng lạm phát làm giảm động lực tiết kiệm của người dân.
Trong dài hạn, gia tăng tiết kiệm thực sự có tác động tích cực đối với nền kinh tế, song nếu xem xét trong ngắn hạn thì việc kích thích chi tiêu là cần thiết hơn để thúc đẩy sự hồi phục.
Tạo việc làm nhờ tăng chi tiêu và đầu tư
Một trong những trở ngại chính làm cho các doanh nghiệp không mặn mà tuyển dụng thêm nhân công là do sức cầu tiêu dùng quá yếu.
Nếu như lạm phát xảy ra, chi tiêu sẽ được kích thích, phía cầu cải thiện thì tất yếu các nhà sản xuất cũng sẽ chớp lấy thời cơ phát triển và thuê mướn lao động nhiều hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn khác có thể khiến cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp do dự trong việc bổ sung lao động, chẳng hạn như khoản chi phí tăng do Luật cải cách hệ thống y tế hay hệ thống thuế thay đổi như thế nào trong năm tới.
Dù chưa thể là giải pháp toàn diện để khắc phục tình trạng trì trệ, song việc kích thích lạm phát ở mức độ vừa phải trong một khoảng thời gian nhất định cũng có thể cải thiện phần nào những thương tổn của nền kinh tế.
2. Lợi ích của lạm phát:
Bốn lợi ích của lạm phát:
Tăng trưởng kinh doanh:
Kiểm soát sự tăng trưởng của lạm phát, có thể trở thành một phần của sự tăng trưởng kinh doanh, đơn giản chỉ vì các khoản tiền tiết kiệm thường được đầu tư, vì chúng sẽ bị lỗ nếu được giữ trong Ngân hàng.
Trong thời gian lạm phát được kiểm soát, người dân trong quá khứ có xu hướng tăng chi tiêu, vì họ sợ giá có thể tăng lên, nên họ sẽ dùng tiền tiết kiệm mua ngay bây giờ, hơn là phải trả nhiều hơn sau đó.
Giảm giá trị nợ:
Lạm phát cao hơn ăn mòn giá trị thực của đồng tiền. Điều này có nghĩa là giá trị thực tế của các khoản nợ giảm, lợi ích doanh nghiệp mắc nợ và các cá nhân qua đó được tăng lên.
Cao hơn giá trị cổ phần:
Cổ phiếu mua tại một giá trị trước đó, có thể tăng giá và bán với giá cao hơn và mang lại lợi nhuận cao hơn.
Tăng giá trị tài sản:
Giá trị của tài sản cố định có thể tăng lên, làm cho một số công ty tài chính an toàn hơn. Theo truyền thống lạm phát cao hơn thường dẫn đến giá cao hơn tài sản cố định trong lý thuyết nên dẫn đến sự gia tăng giá trị.
Trên đây là những lợi thế mà mức độ vừa phải lạm phát cung cấp cho xã hội hiện đại. Trong đó, những lợi thế này sẽ cho phép các công ty thúc đẩy kinh doanh thông qua việc tăng giá dễ dàng hơn, dẫn đến lợi nhuận cao hơn, quản lý, tỷ lệ thất nghiệp bằng cách kín đáo làm giảm tiền lương của người lao động khi cần thiết mà không có họ được nhận thức của nó (ngăn chặn sa thải), và tra mỡ một cách toàn diện các bánh xe của chủ nghĩa tư bản. Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại rằng một khi lạm phát vượt quá một giới hạn hợp lý, khoảng 4-5%, những cạm bẫy bắt đầu lớn hơn lợi ích.
2.2 Những ai có lợi từ giá cao của lạm phát?
Có một quy tắc thường được chấp nhận trong giới kinh tế rằng tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng 2-4% là thực sự tốt cho nền kinh tế vì những lý do nêu trên. Nhưng những gì xảy ra khi tỷ lệ lạm phát gia tăng đáng kể ở trên "tỷ lệ an toàn", như có thể xảy ra ở Mỹ trong thập kỷ tiếp theo? Khi lạm phát 7-12% số thực tế như nhiều người đang mong đợi, những ai được hưởng lợi từ điều này?.
* Chính phủ - Người thụ hưởng rõ ràng nhất của lạm phát cao hơn, ít nhất trong ngắn hạn, là chính phủ. Kể từ khi họ kiểm soát các máy ép in, chính phủ sẽ luôn luôn có khả năng trả nợ của nó, ít nhất là trong nước kể từ khi lạm phát cao hiệu quả làm giảm chi phí dài hạn của tiền vay.
* Khách hàng vay - Bất kỳ ai vay tiền lâu dài cho một tỷ lệ cố định (chẳng hạn như là một thế chấp) hưởng lợi từ lạm phát bởi vì, một lần nữa, nó có hiệu quả làm giảm chi phí trả lãi trong tương lai. Đó là 2000 $ cho mỗi thanh toán thế chấp tháng có thể có vẻ như rất nhiều ngày hôm nay, nhưng 20 năm nữa nó sẽ có giá trị ít hơn rất nhiều. thu nhập của bạn sẽ tăng lên để theo kịp với các chi phí liên tục gia tăng trong khi nợ sống lãi suất cố định của bạn sẽ vẫn không đổi.
* Chủ sở hữu của Tài sản thực - Chủ sở hữu tài sản thực thể như bất động sản, vàng, gỗ, đất nông nghiệp, mỏ, vv có xu hướng làm rất tốt trong thời kỳ lạm phát vì giá của các tài sản này (và những mặt hàng họ sản xuất trong trường hợp mỏ, nông nghiệp, đất và gỗ) có xu hướng tăng cùng với lạm phát.
2.3 Lạm phát vừa phải tốt cho bạn?
Khi lạm phát hai con số thưc tế, mọi người hoảng loạn vì một lý do rất đứng. Một nền tảng giá cả không ổn định gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng để đánh giá sức mua tương lai của họ và khuyến khích đầu tư sản xuất do nguy cơ kinh tế tăng lên và sự không chắc chắn. Nhưng với lạm phát luôn dưới 4% trong thực tế tất cả các nước phát triển, có lợi ích thực sự khi buộc tỷ lệ lạm phát ở mức thấp hơn?
Để bắt đầu, có rất ít nếu có bằng chứng thực nghiệm rằng lạm phát thấp hơn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế khi lạm phát là dưới một giới hạn hợp lý, khoảng 5%. Một âm mưu của tỷ lệ lạm phát so với tăng trưởng kinh tế của tất cả các nền kinh tế phát triển từ năm 1960 đến nay không xác đáng dưới mọi hình thức xu hướng. Đó là, có hay không xuất hiện như một sự tương quan giữa lạm phát (một lần dưới một giới hạn hợp lý) và tăng trưởng kinh tế. Nhưng điều đó không có nghĩa là lạm phát là tốt cho bạn, nhưng đúng hơn, chỉ có trung bình lạm phát không phải là đặc biệt xấu.
Lạm phát mỡ của chủ nghĩa tư bản
Lương có xu hướng được khá không đàn hồi. Mọi người không ưa có một cắt giảm lương vì bất cứ lý do nào. Thật không may, đôi khi tiền lương cần phải được cắt giảm trong các ngành công nghiệp hoặc khu vực không để giải phóng vốn cho sản xuất sử dụng nhiều hơn ở nơi khác. May mắn thay, lạm phát cung cấp một cách ra khỏi tình trạng khó xử này. Trong khi công nhân có thể sẽ không sẵn sàng chấp nhận tiền ít hơn trong điều kiện tuyệt đối, họ sẽ được thêm rất nhiều căn hộ nhận tiền lương cho một hoặc hai năm trong khi lạm phát khoảng 3-4%, một sự hiệu quả - số tiền phải trả cắt giảm trên thực tế. Những loại hình đơn giản như tái phân bổ vốn sẽ không thể trong một thế giới mà không có lạm phát. Kể từ khi loại hình này xuất hiện, lạm phát cho phép vốn được phân bổ một cách hiệu quả hơn nếu không thì sẽ khó thực hiện được, nó sẽ có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi một nơi khác có thể bị chậm phát triển.
Một lợi thế của lạm phát vừa phải là nó giải phóng lãi suất thực âm để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Nếu lãi suất là 2% vào thời điểm lạm phát là 4%, chủ yếu là khách hàng vay được trả tiền để vay tiền. Kể từ khi lãi suất không bao giờ có thể đi dưới 0% về danh nghĩa, công cụ kinh tế này sẽ không được có thể có trong một thế giới mà không có lạm phát. Tất nhiên, nhiều nhà kinh tế nghi ngờ về sự cần thiết của lãi suất thực âm nhưng không có nghi ngờ nó đã được sử dụng hiệu quả nhiều lần.
Cuối cùng, lạm phát vừa phải cho phép các công ty liên tục với biên đẩy giá điện thông qua việc tăng giá dưới chiêu bài của lạm phát. Nếu lạm phát là không tồn tại, bất kỳ nỗ lực tăng giá của các công ty chắc chắn sẽ được chú ý và nhiều xem xét kỹ lưỡng, tuy nhiên, nếu công chúng đến với hy vọng rằng giá sẽ tăng lên theo thời gian do lạm phát, nó sẽ được dễ dàng hơn để tăng giá. Điều này là do người tiêu dùng không quan tâm quá nhiều đến mức độ tăng giá trung bình: họ chỉ thông báo khi chúng xảy ra. Nếu một công ty tăng giá 4% khi lạm phát đang chạy ở mức 3%, mà số tiền để tăng sản 1% trong giá cả. Người tiêu dùng có thể sẽ không đặt câu hỏi về gia tăng, tuy nhiên, vì nó nhỏ và không đáng kể cao hơn mức lạm phát. Kể từ khi người tiêu dùng mong đợi lạm phát, họ chấp nhận việc tăng giá mà không có câu hỏi. Điều này dẫn đến lợi nhuận cao hơn cho các công ty và tiền lương cuối cùng cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với những gì có thể tồn tại khác.
Chính sách mục tiêu lạm phát:
Lạm phát ở mức vừa phải là liều “thuốc tăng lực” cho nền kinh tế, vậy làm cách nào để có thể duy trì tỷ lệ lạm phát? Chính sác mục tiêu lạm phát là một trong những câu trả lời.
Những vấn đề cơ bản về chính sách mục tiêu lạm phát
Sau khi đã nhất trí rằng “ổn định giá cả phải là mục tiêu cơ bản của Chính sách tiền tệ (CSTT) trong dài hạn, là cơ sở để một quốc gia có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên” thì cái khó lại xuất hiện là làm sao có thể đạt được mục tiêu đó. Để tránh được xu hướng gây áp lực lạm phát có thể phát sinh từ sự không nhất quán về thời gian, CSTT thường được dựa vào một “chiếc neo” có vai trò như một cột mốc cần đạt được, và nhờ đó buộc NHTƯ không được phép theo đuổi mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn nữa.
Cho đến nay, đã có nhiều chiếc neo được sử dụng trên thế giới như: “khối lượng tiền tệ”, “tỷ giá” và “tỷ lệ lạm phát”. Mỗi chiếc neo đều có những ưu nhược điểm riêng nhưng chiếc neo lạm phát nổi lên như một chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ tốt nhất với ổn định giá cả. Vì vậy chính sách mục tiêu lạm phát (CSMTLP) đang trở thành xu hướng lựa chọn số một hiện nay cho nhiều quốc gia trên thế giới. Nghĩa là ngày càng có nhiều quốc gia thừa nhận: “Để đạt được mục tiêu cuối cùng là có một nền kinh tế phồn thịnh trong tương lai thì mục tiêu duy nhất của CSTT phải là ổn định giá cả trong dài hạn, và chiếc neo tốt nhất để neo giữ giá cả ổn định chính là bằng mọi cách đạt được mức lạm phát mục tiêu hợp lý”.
Rất nhiều khái niệm từ đơn giản đến phức tạp, dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau được đưa ra, nhưng tựu chung các nghiên cứu đều nhất trí “CSMTLP là một khung cơ bản cho CSTT mà trong đó NHTƯ công khai công bố chỉ số lạm phát trong dài hạn (mục tiêu đã được lượng hoá) và cam kết sẽ duy trì mục tiêu này để nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp”.
Để CSMTLP có thể thành công trước hết phải đảm bảo được “tính độc lập của NHTƯ” từ đó mới có thể đảm bảo thực hiện một “CSTT đơn mục tiêu” với “tính công khai minh bạch” trong mọi hoạt động. Bên cạnh đó phải xây dựng được khung thời gian hợp lý phù hợp với từng mục tiêu đã được lượng hoá. Và tất nhiên vì trong thời gian đầu khi tập trung vào việc duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp, nền kinh tế sẽ phải hứng chịu một thời gian khủng hoảng với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và kinh tế trì trệ, vì vậy nội lực kinh tế của quốc gia đó phải đạt đến một mức độ nhất định để tạo ra cơ sở vượt qua được khoảng thời gian này.
Tính độc lập của NHTƯ được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế nào, NHTƯ có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTƯ nói chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra.
Một vấn đề khác cũng quan trọng không kém là lượng hoá mục tiêu hay đặt ra mức lạm phát hợp lý. Vấn đề là liệu mức lạm phát nên là một con số hay là một khung giá trị biến thiên?
So sánh CSMTLP của một số nước trên thế giới
Hơn một chục năm qua kể từ khi CSMTLP được biết đến, đã có rất nhiều quốc gia áp dụng nó. Tuy có những điểm giống nhau vì cùng dựa trên những lý thuyết cơ sở nhưng CSMTLP của mỗi nước lại mang những mầu sắc khác nhau. Để có cái nhìn tương đồng cũng như cở sở so sánh về CSMTLP của các nước này, chúng ta có thể nhìn vào bảng dưới đây với những tiêu chí hết sức cơ bản tương ứng với một số vấn đề đã đặt ra ở phần trên. (Xem bảng 1).
Bảng 1
Quốc gia
New Zealand
Canada
EU
Thời điểm áp dụng CSMTLP
4/1990
26/2/1991
1/1/1999
Chỉ số lạm phát mục tiêu hiện nay
0% - 3%
1% - 3%
nhỏ hơn và gần 2%
Tính độc lập của NHTƯ
Tương đối
Đối tượng của học thuyết “trách nhiệm tay đôi”
Tuyệt đối
Cơ quan công bố lạm phát mục tiêu
Sự thoả thuận giữa BTC và chính phủ
BTC và NHTƯ phối hợp công bố
ECB
Công cụ đo lường lạm phát
CPI
CPI
HICP
Chỉ số lạm phát cơ bản
CPI loại trừ tác động của lãi suất
CPI loại trừ tác động giá lương thực và năng lượng
HICP loại trừ tác động của thực phẩm chưa chế biến
Công bố báo cáo
Hàng quý từ 3/1990
Nửa năm từ 5/1995
Hàng tháng
Dự báo lạm phát
Có
Không
Không
Về thời điểm áp dụng: Có thể coi New Zealand là quốc gia đầu tiên áp dụng CSMTLP một cách trực tiếp vào 4/1990 (vì trước đó đã có Đức, nhưng được đánh giá là CSMTLP một cách gián tiếp). Sau đó 1 năm NHTƯ Canada cũng quyết định áp dụng CS này vào 26/2/1991, họ đã thực thi một CSMTLP rất linh hoạt và hết sức thành công cho đến tận hiện nay. Và gần đây, NHTƯ châu Âu ECB cũng đưa ra quyết định áp dụng CSMTLP vào 1/1/1999 ngay thời điểm ra đời. Đây có thể coi là NHTƯ lớn nhất trên thế giới đã lựa chọn CSMTLP.
Về chỉ số lạm phát mục tiêu: Từ khi bắt đầu thực hiện, New Zealand đã xác định khung mục tiêu của mình là 0% - 2% và coi mức 1% là gần tương đương với ổn định giá cả. Nhưng sau đó nhận thấy rằng sự phát triển kinh tế ở mức lạm phát 1,9% và 2,1% là như nhau nên đã quyết định mở rộng khung lạm phát lên 0% -3% cho đến nay.
Trong khi đó, điểm đáng chú ý của Canada là việc có vẻ như NHTƯ của họ đã công bố mục tiêu tại một điểm nhưng thực chất lại là một khung giá trị bởi vì họ nhấn mạnh vào biên độ dao động của lạm phát xung quanh giá trị này. Mặc dù ngay từ đầu 2% (tương đương với biên độ 1% - 3%) được cho là hợp lý nhưng để phù hợp với điều kiện kinh tế Canada lúc mới bắt đầu (lạm phát rất cao, thất nghiệp gia tăng, kinh tế trì trệ...), NHTƯ không quyết định lựa chọn giá trị này ngay mà đặt mục tiêu là 3% (biên độ 2% -4%) rồi sau đó giảm dần theo thời gian (3% cho đến hết năm 1992, 2.5% cho đến hết năm 1994, 2% cho 18 tháng tiếp theo). Đến 2/1998, NHTƯ Canada quyết định duy trì mục tiêu 2% đến hết năm 2001 vì thực tế đã chứng tỏ rằng đây là một khung dao động phù hợp, tạo ra những thay đổi tích cực cho nền kinh tế. Có lẽ vì thế mà vào ngày 18/5/2000 mức 2% đã tiếp tục được quyết định sẽ kéo dài đến hết năm 2006.
Đi sau các nước khác cũng đồng nghĩa với việc rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm, ECB công bố mức 2% là hợp lý và cho một biên độ dao đông nhỏ hơn và gần 2%. Họ cho rằng nếu mức lạm phát được ấn định quá cao, chúng ta sẽ phải đối mặt với rủi ro là lạm phát dự tính sẽ tăng theo hình trôn ốc (khởi đầu là dự tính lạm phát tăng làm cho tiền lương tăng; tiền lương tăng dẫn đến tăng lạm phát, lạm phát tăng lại làm cho tiền lương tăng...). Tuy nhiên, nếu xác định ở mức quá thấp thì lại phải đối mặt với rủi ro thiểu phát nền kinh tế, trong đó mức giá cả chung giảm xuống. Do vậy, mục tiêu lạm phát sau khi trừ đi sai số ngẫu nhiên vẫn phải đạt mức trên 0% một chút để tránh nguy cơ thiểu phát vẫn có thể được coi là ổn định giá cả. ECB đã xác định rằng sai số mà họ có thể mắc phải trong quá trình thống kê đo lường có thể là 1,5% nên với việc xác định mục tiêu nhỏ hơn và càng gần 2% càng tốt đã loại trừ cả nguy cơ thiểu phát lẫn bao gồm những xu hướng tăng giá hợp lý.
Về tính độc lập của NHTƯ: Hoạt động của NHDT New Zealand mang tính luật định cao được quy định trong các PTA (Policy Targets Agreement – thoả ước mục tiêu chính sách) nhưng thực ra lại là tính độc lập tương đối, điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là một mặt NHDT New Zealand độc lập trong việc thực thi CSTT bằng các công cụ của nó, nhưng mặt khác nó lại không độc lập trong việc hoạch định CSTT mà những mục tiêu phải do “Sự thoả thuận giữa Bộ Tài chính và Chính phủ”, NHDT chỉ hoạt động như một đại lý của Chính phủ mà thôi. Việc để cho mục tiêu lạm phát rời khỏi khung mục tiêu đã định đồng nghĩa với sự ra đi của Thống đốc đương nhiệm.
Trong khi đó với Canada, NHTƯ lại là đối tượng của “học thuyết trách nhiệm tay đôi”, tuy mục tiêu lạm phát được công bố là “sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHTƯ” nhưng sự kiểm soát CSTT cuối cùng lại được đặt dưới quyền của Bộ Tài chính, điều này có nghĩa là Bộ trưởng có thể buộc Thống đốc phải thực hiện một CSTT cụ thể bằng một chỉ thị (thường sẽ đi kèm với việc Thống đốc phải xin từ chức).
Trong khi đó, ngay từ khi ra đời trong “Hiệp ước về việc thành lập liên minh châu Âu” đã có những điều luật quy định tính độc lập tuyệt đối cho ECB trong cả hoạch định lẫn thực thi CSTT. Những quyết định về mục tiêu lẫn cách thức làm sao đạt được những mục tiêu đó chỉ do ECB quyết định.
Về công cụ đo lường lạm phát: Cả 3 nước này đều nhất trí sử dụng chỉ số CPI bởi vì đặc tính phổ biến, dễ hiểu và được công bố một cách công khai thường xuyên của nó, khác biệt chỉ là ở việc ECB sử dụng chỉ số HICP. Về bản chất, HICP tương tự CPI nhưng được tính theo phương pháp thống kê cân đối giữa các quốc gia thành viên của EU. Nhưng bên cạnh, đó cả 3 nước đều sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản vì cho rằng chỉ số này thể hiện rõ hơn những xu hướng biến động trong dài hạn của lạm phát vì nó đã loại trừ các tác động mang tính ngắn hạn và có thể nhanh chóng mất đi như New Zealand loại trừ khỏi CPI tác động của lãi suất (đặc biệt là lãi suất của việc mua bán nhà đất bất động sản), Canada loại trừ tác động của giá lương thực và năng lượng, trong khi ECB loại trừ biến động của thực phẩm chưa qua chế biến.
Về sự công khai minh bạch: Để thực hiện điều đó, ngoài việc thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, những tham luận của các quan chức cao cấp của NHTƯ và Chính phủ, những chuyến công tác của các Thống đốc, các nước này đều rất chú ý cho ra các báo cáo một cách thường xuyên: New Zealand phát hành bản “Tuyên bố CSTT” đều đặn hàng quý từ 3/90, Canada nửa năm một lần cho ra “Báo cáo CSTT” từ 5/95 và các “Cập nhật báo cáo CSTT” xen giữa. Trong khi đó ECB còn thường xuyên hơn đều đặn hàng tháng đều cho ra “Báo cáo CSTT” của mình đến với các chủ thể trong nền kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ - Copy.doc