+ Nội dung của quy luật phân phối theo lao động
Đây là hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân được căn cứ vào số lượng và chất lượng cho tiêu dùng mà người đó đã đóng góp cho xã hội hay cho tập thể. Nghĩa là: làm nhiều hướng nhiều, làm ít hướng ít, có sức lao động mà không làm thì không được hưởng, lao động có kỹ thuật và lao động trong những ngành nghề độc hại, trong điều kiện khó khăn thì phải được hưởng một phần thu nhập thích đáng.
Dựa trên cơ sở nội dung của quy luật phân phối theo lao động như trên, ta có thể thấy căn cứ để tiến hành phân phối theo lao động như sau:
Căn cứ vào số lượng lao động được tính bằng số thời gian lao động hay số lượng sản phẩm làm ra.
Thời gian làm việc nhiều thì được hưởng nhiều lương, làm việc trong thời gian ngắn hơn thì lương sẽ ít hơn.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4387 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò của lợi ích kinh tế.
+ Lợi ích kinh tế là động lực kinh tế thúc đẩy con người quan tâm đến sản xuất và các hoạt động khác.
Trong nền sản xuất xã hội loài người có rất nhiều động lực khác nhau chẳng hạn động lực kinh tế vẫn là yếu tố quyết định, nó thúc đẩy con người và các chủ thể kinh tế vì lợi ích kinh tế mà quan tâm đến sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: Trong thời kỳ bao cấp, chúng ta thực hiện phân phối lợi ích bình quân: một tháng một người được 13 - 15 kg gạo, không phân biệt người làm ít làm nhiều, tất cả đều được như nhau. Điều này đã không khuyến khích được người lao động. Hiện nay, chúng ta thực hiện phương pháp theo đa động, làm ít được ít, làm nhiều hưởng nhiều, có sức khoẻ có việc làm mà không làm thì không hưỏng, điều này đã kích thích người lao động hăng say làm việc, sẵn sàng lao động từ 12 - 16 h/ ngày.
- Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc cũng có và duy trì mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Để thu được nhiều lợi ích về cho mình.
Chẳng hạn trong học tập, những người nào đạt kết quả sao, tư cách đạo đức lao động sẽ được học bổng từ 120 -180.000 đồng/ tháng. Điều này đã khuyến khích sinh viên hăng say học tập.
- Tuy nhiên không phải lúc nào lợi ích kinh tế cũng là động lực. Đặc biệt khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, giữa các thành viên kinh tế mà giữa những cá nhân còn người cũng có sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Chẳng hạn khi phát triển lợi ích xã hội cá nhân sẽ giảm xuống, ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Do đó, lợi ích kinh tế chỉ trở thành động lực kinh tế khi giải quyết tốt mối quan hệ sản xuất lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội (kết hợp hài hoà 3 lợi ích) và trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế, phải kết hợp được lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế. Do đó, khi Nhà nước định ra bất kỳ chính sách kinh tế nào: thuế, tiền lương, lãi suất … phải đảm bảo luôn luôn kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích kinh tế. Có như vậy mới thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển.
II. Nếu giải quyết mâu thuẫn vì lợi ích không phù hợp nó sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Vị trí, bản chất và tính đa dạng của quan hệ phân phối
a. Vị trí của quan hệ phân phối
Phân phối là một trong 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, nó có vai trò quan trọng tác động trở lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất, lưu thông và tiêu dùng phát triển, thực hiện được công bằng xã hội.
Quá trình sản xuất xã hội gồm 4 khâu: SX - PP - TĐ - TD. Do đó phân phối là khâu trung gian giữa sản xuất với trao đổi tiêu dùng. Cho nên phân phối do sản xuất quyết định. Sản xuất quyết định phân phối ở số lượng và chủng loại hàng hoá sản xuất ra, có sản xuất, mới có cái để mà phân phối chứ nếu không sản xuất chẳng có cái gì mà phân phối cả. Tuy nhiên phân phối cũng có tác động trở lại đến sản xuất. Nếu phân phối hợp lý, được thực hiện tốt thì nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Còn nếu phân phối không hợp lý bị ách tắc sẽ kìm hãm sản xuất, làm cho sản xuất khủng hoảng. Vì vậy quan hệ giữa sản xuất và phân phối có mối quan hệ biện chứng với nhau, là điện kiện để cho nhau là nguyên nhân kết quả của nhau:
Angghen nhận xét: "Phân phối không chỉ đơn thuần là kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi. Đến lượt nó, nó cũng có tác động trở lại sản xuất và trao đổi ".
Lúc sinh thời Bác Hồ cũng nói rằng: "Không sợ thiếu mà chỉ sợ phân phối không công bằng".
Phân tích bao gồm: Phân phối bù đắp TLSX đã hao phí, phân phối để bù đắp tái sản xuất sức lao động
Phân phối làm hình thành các quý cho sản xuất, quỹ cho tiêu dùng cá nhân, quỹ phúc lợi tập thể.
b. Bản chất của quan hệ phân phối
Xây dựng về bản chất, phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định. Đồng thời quan hệ phân phối là các đảm bảo cuối cùng để quan hệ sản xuất từ hình thức pháp lý trở thành hình thức thực hiện về mặt kinh tế.
+ Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định. Chúng ta biết rằng quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quan hệ tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất.
Mỗi một phương thức sản xuất có quan hệ sản xuất khác nhau do đó quan hệ phân phối cũng khác nhau. Quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Trong xã hội có giai cáp, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất sẽ quyết định quan hệ phân phối và thức hiện phân phối trước hết vì quyền lợi của giai cấp đó.
Công xã nguyên thuỷ: sản phẩm làm ra chưa, thể hiện sở hữu chung, cộng đồng, quan hệ phương pháp thực hiện phân phối bình quân để đảm bảo cho sự tồn tại của mọi thành viên trong công xã.
CHNL, phong kiến, chủ nghĩa tư bản: Quan hệ phương pháp khác: căn cứ chủ yếu để thực hiện phân phối là mức độ chiếm hữu tư liệu sản xuất và tài nghệ sản xuất kinh doanh.
Trong thời kỳ quá độ: Phương pháp theo lao động là nguyên tắc phân phối cơ bản. Mặc dù, quan hệ phân phối hiện nay chưa phát huy được ưu việt của quan hệ phương pháp xã hội chủ nghĩa.
+ Đồng thời thông qua quan hệ phân phối mới thấy quyền sở hữu thuộc về ai, mới thấy quyền sở hữu về pháp lý trở thành quyền thực hiện về mặt kinh tế như thế nào.
Ví dụ trong chủ nghĩa tư bản
Địa chủ độc quyền sở hữu ruộng đất: Có quyền thu tô (Quyền sở hữu pháp lý)
Giai cấp tư sản sở hữu tư liệu sản xuất (quyền sở hữu pháp lý) có quyền phân chia sản phẩm (quyền thực hiện về mặt kinh tế)
c. Tính đa dạng của quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ
Trong xã hội nào cũng vậy, quan hệ phân phối bao giờ cũng rất phức tạp và đa dạng. Đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau gắn với các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Vì vậy cũng sẽ còn tồn tại nhiều hình thức phân phối khác nhau tương ứng với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Xét trong phạm vi toàn xã hội, hình thức phân phối đa dạng nhưng lại mang tính thống nhất.
+ Tính thống nhấ của quan hệ phân phối biểu hiện ở chỗ bất kỳ quá trình phân phối nào cũng đều bao gồm phân phối tiêu dùng sản xuất và phân phối tiêu dùng của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng cá nhân.
Ví dụ: Bất kể thành phân kinh tế nào
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế hợp tác xã
Quá trình phân phối: Phương pháp cho sản xuất, bù đắp tư liệu sản xuất; Phương pháp cho thể dụng cá nhân: bù đắp sức lao động.
+ Tính đa dạng của quan hệ phân phối biểu hiện ở chỗi, mỗi một thành phần kinh tế có một hình thức phân phối riêng nhưng giữa các hình thức phân phối còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lại hoạt động đan xen nhau, hỗ trợ nhau tạo nên tính đa dạng và phong phú trong điều kiện phân phối hiện nay.
Ví dụ
Kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác: phân phối theo lao động là chủ yếu
Kinh tế tư bản Nhà nước: phân phối theo tài sản, vốn.
Đồng thời giữa các hình thức phân phối còn tồn tại đan xen vào nhau: Kinh tế Nhà nước - chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện phân phối theo lao động. Ngoài phân phốilao động, quan hệ phân phối trong doanh nghiệp Nhà nước còn chịu ảnh hưởng bởi hình thức phân phối của các thành phần kinh tế khác. Chẳng hạn quy luật phân phối theo lợi nhuận: doanh nghiệp nào sản xuất tốt, chất lượng sản phẩm cao, ngân sách CĐ cao sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Một phần lợi nhuận tăng thêm đó sẽ phân phối trực tiếp cho người lao động để nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho người lao động nhằm khuyến khích người công nhân hăng say lao động, chịu khó học hỏi để nâng cao trinh độ tay nghề của mình. Đến lượt mình, người lao động có thu nhập dùng thu nhập của mình để mua cổ phần trong các công ty cổ phần để được hưởng phân phối dưới hình thức lợi tức cổ phần hoặc gửi ngân hàng để nhận lợi tức.
Kinh tế tư bản Nhà nước: Thực hiện phân phối theo tài sản, vốn góp vốn nhiều, tư bản nhiều thu được hưởng lợi nhuận nhiều ai góp vốn ít, được hưởng ít. Thực hiện phân phối theo lao động đá với công nhân làm việc trong xí nghiệp liên doanh. Ai làm nhiều sản phẩm lương cao, ai làm được công việc lương thấp.
Các hình thức phân phối thu nhập cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2. Phân phối trực tiếp cho tín dụng cá nhân
a. Nguyên tắc phân phối theo lao động
+ Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa và được thực hiện chủ yếu trong thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế.
+ Khái niệm phân phối theo lao động: là dành một phần thu nhập quốc dân cho những người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động mà người lao động đã công hiếu cho xã hội không phân biệt giới tính, tuổi tác, màu da.
+ Tính tất yếu khách quan của phân phối theo lao động trong thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể.
Cả hai thành phần kinh tế này dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và có quyền làm chủ cho phân phối tiêu dùng cá nhân. Vì vậy căn cứ đẻ phân phối không thể căn cứ vào tài sản vốn mà phải lấy số lượng và chất lượng mà người đó đóng góp làm căn cứ để phân phối.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau có trình độ xã hội hoá khác nhau và có thành phần kinh tế chưa định hướng theo chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chưa thể thực hiện phân phối theo lao động cho tất cả các thành phần kinh tế mà chỉ có thể thực hiện đối với thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể.
Lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ phát triển chưa cao, của cải làm ra chưa nhiều, chưa đủ sức để thực hiện phân phối theo nhu cầu của xã hội mà chỉ có thể thực hiện phân phối theo lao động.
Dưới chủ nghĩa xã hội, thực hiện phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu nhưng nguyên tắc phân phối này dựa trên có sở lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, của cải tuôn ra dào dạt, đáp ứng được nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Chỉ dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển như vậy thì mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu được.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, ngân sách CĐ còn thấp, của cải làm ra chưa nhiều, chưa đủ để thực hiện phân phối theo nhu cầu. Do đó, phải thực hiện phân phối dựa vào số lượng và chất lượng lao động mà người đó đã đóng góp cho xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn có sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động, khác nhau về hao phí lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội. Vì vậy cần phải lấy lao động làm cơ sở để phân.
Lao động trong thời kỳ hiện nay chưa thực sự trở thành nhu cầu tự giác của mỗi ngưòi mà nó còn là phương tiện để kiếm sống. Mặt khác, còn có những ý thức, tư tưởng chây lười ỷ lại, thích làm ít lại muốn hưởng nhiều. Vì vậy, để khuyến khích và giáo dục ý thức thái độ lao động cần phải thực hiện phân phối theo lao động.
Tóm lại, chính là những lý do trên, phân phối theo lao động là tất yếu khách quan trong thành phần kinh tế Nhà nước và hợp tác.
+ Nội dung của quy luật phân phối theo lao động
Đây là hình thức phân phối cho tiêu dùng cá nhân được căn cứ vào số lượng và chất lượng cho tiêu dùng mà người đó đã đóng góp cho xã hội hay cho tập thể. Nghĩa là: làm nhiều hướng nhiều, làm ít hướng ít, có sức lao động mà không làm thì không được hưởng, lao động có kỹ thuật và lao động trong những ngành nghề độc hại, trong điều kiện khó khăn thì phải được hưởng một phần thu nhập thích đáng.
Dựa trên cơ sở nội dung của quy luật phân phối theo lao động như trên, ta có thể thấy căn cứ để tiến hành phân phối theo lao động như sau:
Căn cứ vào số lượng lao động được tính bằng số thời gian lao động hay số lượng sản phẩm làm ra.
Thời gian làm việc nhiều thì được hưởng nhiều lương, làm việc trong thời gian ngắn hơn thì lương sẽ ít hơn.
Số lượng sản phẩm làm ra càng nhiều thì thu nhập càng cao và ngược lại.
Căn cứ vào chất lượng lao động có nghĩa làm căn cứ vào trình độ thành thạo tay nghề và chất lượng sản phẩm làm ra.
Trong cũng một khoảng thời gian làm việc như nhau, lương của người thợ bậc 7 (bậc cao nhất) bao giờ cũng cao hơn lương của người đang học việc.
Điều kiện và môi trường lao động: lao động vất vả, nặng nhọc, làm việc trong môi trường độc hại khó khăn từ tiền lương phải cao hơn.
Ví dụ: Lương giáo viên ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo phải cao hơn lương giáo viên ở vùng đồng bằng, vùng có điều kiện thuận lợi hơn.
Tuỳ thuộc vào tính chất của ngành nghề, sản xuất.
Mỗi ngành nghề khác nhau có tính chất khác nhau. Có những ngành buộc người lao động phải hy sinh bản thân một cách thầm lặng (chiến sỹ tình báo) nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ… thì những người lao động trong lĩnh vực này phải được hưởng lương cao.
Xuất phát từ những căn cứ trên, nguyên tắc phân phối theo lao động yêu cầu:
Trong điều kiện như nhau, lao động ngang nhau thì sẽ công ngang nhau và lao động khác nhau trả công khác nhau.
Trong điều kiện khác nhau, lao động như nhau có thể trả công khác nhau hoặc lao động khác nhau có thể trả công bằng nhau.
+ Tác dụng của phân phối theo lao động:
Tiền công trong các điều kiện sản xuất kinh doanh
Tiền thưởng
Tiền phụ cấp
Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp
Khi thực hiện phân phối lao động hợp lý, phân phối theo lao động có những tác dụng sau đây:
. Thúc đẩy mọi người quan tâm đến sản xuất kinh doanh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong lao động, cố gắng học tập nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề.
Phân phối theo lao động có nghĩa là làm nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Do đó, nó thúc đẩy người lao động vì lợi ích của mình hăng hái lao động, cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, chăm chỉ học hành. Và điều này không chỉ có lợi cho bản thân người lao động mà còn có lợi cho tập thể, cho xã hội.
- Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất sức lao động vưa f có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Góp phần ổn định và phát triển kinh tế, phân bố lại lực lượng lao động trên phạm vi xã hội
Ví dụ: ngành giáo dục cần giáo viên đi công tác ở vùng sâu vùng xa ở đó có điều kiện khó khăn, xa xôi hẻo lánh. Trong điều kiện đó, Nhà nước có chính sách đãi ngộ tăng lương, tăng phụ cấp cho họ, tạo điều kiện thuận lợi về chỗ ở. Những việc làm trên tạo điều kiện cho giáo viên yên tâm công tác, phục vụ suốt đời.
- Góp phần giáo dục thái độ lao động mới:
Phân phối theo lao động khuyến khích người lao động yêu công việc, quý trọng lao động, đồng thời phê phán thói lười biếng, ỷ lại, trông chờ vào người khác, hình thành con người lao động mới.
b. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội
+Vì sao phải có hình thức phân phối lao động thông qua các hình thức quỹ phúc lợi xã hội?
Phân phối theo lao động là rất cơ bản của xã hội nhưng nó chưa phải là hình thức phân phối duy nhất bởi vì:
Phân phối lao động mới chỉ phân phối cho những người có sức khoẻ làm việc và có việc làm. Nhưng trong xã hội còn có những người chưa tìm được việc làm, không có việc làm có thể do già ốm tàn tật, thất nghiệp ….. Nếu chỉ thực hiện phân phối theo lao động thì họ không được hưởng, không thể tồn tại được
- Phân phối theo lao động tuy đã công bằng, hợp lý nhưng chưa công bằng hoàn toàn do chưa tính đến những điều kiện, hoàn cảnh cá nhân của từng người.
Ví dụ : Hai người lao động ngang nhau được phân phối ngang nhau. Nhưng đằng sau mỗi người là gia đình. Có người có nhiều con, có người lại phải nuôi bố mẹ già do đó phân phối cho mỗi người được ít hơn.
"Với một công việc ngang nhau, và do đó với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia."
(M-A. Tuyển tập, Tập 4)
Đó chính là những thiếu xót không thể tránh khỏi khi thực hiện phân phối theo lao động, do đó cần phần có hình thức phương pháp thông qua các quỹ phúc lợi để bổ xung.
- Phân phối theo lao động không thể đảm bảo được sự phát triển toàn diện của cá nhân cũng như cộng đồng xã hội. Có những nhu cầu rất cần tập thể và xã hội hỗ trợ.
Ví dụ: Nếu chỉ bằng đồng lương thì không đủ để nuôi các con đi học mà cần có quỹ xã hội, quỹ tập thể để bù đắp vào.
Tóm lại: chính vì 3 lý do trên, ngoài phân phối theo lao động cần có phân phối theo phúc lợi tập thể và phúc lợi xã hội để bù đắp vào những nhu cầu hẫng hụt ở trên. Do đó, phân phối theo phúc lợi tập thể xã hội là tất yếu, khách quan.
+ Hình thức biểu hiện phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội:
. Phúc lợi nhà ăn tập thể, nhà trẻ trưởng học, bệnh viện
. Nhà điều dưỡng, quỹ bảo hiểm xã hội.
. Việt Nam do đặc thủ chiến tranh kéo dài cho nền còn có quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, quỹ từ thiện đối với người già, tàn tật và trẻ mồ côi.
. Quỹ hỗ trợ tài năng trẻ, quỹ khuyến học, quỹ giúp học sinh nghèo vượt khó.
+ Tác dụng của phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội việc phân phối này có tác dụng khắc phục và làm giảm bớt những hạn chế của phân phối theo lao động nhằm khuyến khích người lao động quan tâm đến sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho người lao động.
+ Tác dụng của phương pháp thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
. Phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội.
. Nâng cao mức sống của toàn dân, đặc biệt đời đối với những người có thu nhập thấp đời sống khó khăn, làm giảm chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.
. Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới.
+ Quý phúc lợi chỉ phát huy tác dụng khi phù hợp với các yêu cầu khách quan.
. Quý phúc lợi tập thể không được mở rộng quá khả năng kinh tế cho phép.
. Tốc độ phát triển của thu nhập trực tiếp của các cá nhân trong cộng đồng phải nhanh hơn tốc độ của các phúc lợi xã hội tập thể.
. Cần sử dụng quý phúc lợi có hiệu quả
. Quý phúc lợi cần được xây dựng, đóng góp theo tinh thần xã hội hoá.
c. Các hình thức phương pháp khác
- Trong các đơn vị kinh tế tập thể: có sự kết hợp phương pháp theo vốn và phương pháp theo lao động.
- Trong thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ: phương pháp phụ thuộc vào vốn đầu tư và tài năng sản xuất kinh doanh của người lao động.
- Trong TCTTBTN và TBNN phương pháp phân phối dựa trên vốn sở hữu và sức lao động.
3. Từng bước thực hiện công bằng trong phương pháp thu nhập
Biện pháp:
1. Phát triển mạnh mẽ cơ sở sản xuất tăng khối lượng cơ sở vật chất được sản xuất ra
2. Hoàn thiện cách sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bút hợp lý bất định
3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập: thuếu TN, trợ cấp trợ giá.
4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
. Xác định phương hướng, cơ cấu, bước đi, nhiệm vụ chủ yếu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân
. Nắm những cân đối lớn của nền kinh tế: CN - NN - dịch vụ. Cân đối hàng tiền, tổng cung - tổng cầu…. Các chỉ tiêu quan trọng như GDP - GNP.
. Quyết định kế hoạch Ngân sách, kế hoạch thu chi, tiền tệ kế hoạch xuất nhập khẩu và cân đối ngoại tệ…
. Nhà nước tác động đến cơ sở bằng hệ thống chỉ tiêu hướng dẫn dùng cơ chế thị trường và các công cụ, các chính sách kinh tế khác để tác động gián tiếp, tránh mệnh lệnh, gò ép.
. Các cơ sở căn cứ vào chỉ tiêu hướng dẫn của cơ quan quản lý trực tiếp, chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Đồng thời căn cứ vào thực lực của mình (vốn, nguyên liệu, vật liệu, lao động, thị trường) mà điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm vật chất, tự bù đắp và có lãi.
- Cải tiến hệ thống bộ máy làm kế hoạch, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm kế hoạch, nhất là kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô
III. Quan hệ tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ
1. Bản chất, chức năng và hệ thống tài chính
a. Khái niệm
- Quá trình sản xuất xã hội bao gồm 4 khâu: SX-PP-TĐ-TD. Trong số của cải vật chất tạo ra trong năm, nhà nước phải đứng ra phân phối tổng sản phẩm xã hội cho các tầng lớp dân cư vì những mục đích nhất định để chuyển từ khâu sản xuất sang khâu tiêu dùng. Việc phân phối tổng sản phẩm xã hội chính là công việc của tài chính.
- Khái niệm tài chính: Là một hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong việc hình thành, phân phối và sử dụng một cách có kế hoạch các quỹ tập trung và không tập trung nhằm những mục đích nhất định.
- Trong thời kỳ quá độ, quan hệ tài chính còn tồn tại là một tất yếu khách quan. Bởi vì trong thời kỳ quá độ còn sản xuất hàng hoá, còn quan hệ hàng tiền tệ, các đơn vị kinh tế vẫn cần sử dụng quan hệ hàng hoá, tiền tệ để hạch toán sản xuất kinh doanh. Đồng tiền, Nhà nước phải thu - chi ngân sách, sử dụng ngân sách như một công cụ kinh tế cực kỳ quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Do vậy, tài chính tồn tại là tất yếu khách quan.
b. Bản chất tài chính
Tài chính xã hội chủ nghĩa là một mặt của quan hệ phân phối, là một hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong việc hình thành, phân phối và sử dụng một cách có kế hoạch các quỹ tập trung và không tập trung dưới hình thức tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo tái sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Như vây, bản chất của quan hệ tài chính là một mặt của quan hệ phân phối dưới hình thức tiền tệ để hình thành nên các quỹ tập trung (ngân sách nhà nước) và các quý không tập trung/ quỹ của các xí nghiệp) và sử dụng các quỹ đó theo mục tiêu nhất định. Mục đích của việc sử dụng quỹ đó là nhàn ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.
c. Hệ thống tài chính:
- Tài chính có nhiều khâu, nhiều bộ phận. Mỗi khâu, mỗi bộ phận có vị trí, nhiệm vụ và vai trò khác nhau song giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thanh hệ thống tài chính.
- Người ta có thể phân chia hệ thống tài chính dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Trong bài này, chúng ta phân chia hệ thống tài chính dựa vào tiêu thức, đó là: sự phân chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh ở các đơn vị cơ sở. Căn cứ vào tiểu thức này, hệ thống tài chính bao gồm:
Tài chính Nhà nước gắn với việc hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung.
Trong các quỹ tập trung, ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất, là quý tập trung lớn nhất. Tầm quan trọng của ngân sách nhà nước biểu hiện ở nét ở chỗ: sự lành mạnh của một nước, của một quốc gia biểu hiện ở sự lành mạnh của ngân sách nhà nước. Một ngân sách nhà nước được gọi là lành mạnh nếu có sự thăng bằng thu chi và có kết dư cho năm sau, có thăng dư ngân sách. Nếu ngân sách bị thâm hụt hay bội chi trong một thời gian khá dài biểu hiện rõ nét sự yếu kém của hệ thống tài chính. Chính vì tầm quan trọng của NSNN như vậy cho nên việc dự toán và quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm đều phải do quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất thông qua. Trong năm tay dự kiến ngân sách nhà nước bội chi 6% để hoàn thành một số công trình trong năm 2000 nhằm phát huy hiệu quả ngay và để khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra.
Nguồn thu:
Thuế (chủ yếu)
Phí lệ phí
Các nguồn khác
Ngân sách nhà nước
Các khoản chi
Chi thường xuyên
Chi trả nợ lãi
Chi đầu tư phát triển
+ Tài chính các đơn vị kinh tế cơ sở gắn liền với việc hình thành phân phối và sử dụng các quỹ không tập trung như quỹ phát triển mở rộng sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi.
d. Chức năng tài chính:
Tài chính xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản sau đây:
- Chức năng phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức tiền tệ làm hình thành các quỹ theo những tỉ lệ nhất định.
+ Các đơn vị kinh tế cơ sở thông qua phân phối lần đầu mà hình thành các quỹ của đơn vị như: quỹ mở rộng sản xuất, quý lương, quỹ dự trữ, quỹ bảo hiểm, quỹ khen thưởng.
+ Nhà nước thông qua phương pháp lần đầu mà hình thành nền người thu ngân sách để chỉ đạo và điều hành nền kinh tế.
Với nguồn thu ngân sách do phân phối lần đầu, Nhà nước tiền hành phân phối lại trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để hình thành các loại quý: quý phát triển sản xuất, quỹ dự trữ quốc gia, quý xây dựng cơ bản, quỹ y tế, giáo dục, quý quốc phòng - an ninh, quý bảo hiểm quỹ quản lý nhà nước.
Như vây, thông qua việc phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội mà hình thành nên các quý theo tỷ lệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân nhằm phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Chức năng giám đốc bằng đồng tiền sự hoạt động kinh tế của các xí nghiệp và tổ chức kinh tế:
Thông qua phân phối, Nhà nước kiểm tra các nghiệp vụ kế toán, các kết quả tài chính để kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp với mục đích giám sát việc sử dụng các nguồn lực một cách tiết kiệm, có hiệu quả, đúng mục đích. Qua kiểm tra mà kịp thời phát triển, ngăn chặn và có biện pháp xử lý các vụ vi phạm luật lệ, chế độ tài chính, tham ô lãng phí, gây thất thoát tài sản của nhà nước, hướng mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh theo đúng hướng, đúng pháp luật.
Hai chức năng trên có quan hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau. Thông qua phân phối mà thực hiện kiểm tra, giám sát và phải dựa vào kiểm tra để đảm bảo phân phối hợp lý.
e. Phương hướng của hoạt động tài chính
Trong thời gian qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT19.docx