Tiểu luận Lợi nhuận - Vai trò lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trước năm 1986 nền kinh tế Nhà nước là nền kinh tế chỉ huy, ở đó Nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt được lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó là được chuyển vào Ngân sách qua doanh thu như một thách thức thuế ẩn ngầm. Về phía mình, các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước cấp. Trong hệ thống "phân phối"- "phân phối lại" này sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường, mà dựa trên định mức,đánh giá sự công hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí, quyền lực của nó trong hệ thống "phân phối - phân phối lại". Điều đáng nói là hệ thống "phân phối - phân phối lại" là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy nhưng mức độ "tập trung hoá" càng cao thì hệ thống đó càng phình ra, càng có nhiều doanh nghiệp khổng lồ, mà sản phẩm của nó không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại của khu vực vô hình ngăn cản mọi nỗ lực gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng của hệ thống "phân phối - phân phối lại" làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lợi nhuận - Vai trò lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m lái” phải là người hiểu biết sâu rộng trong công việc lắm bắt vấn đề để đưa ra các phương án tối ưu. các chính sách phải hình thành từ sự hiểu biết sâu sắc những gì nó đem lại và những gì nó gây ra trong hiện tại và tương lai. Đứng trên tầm vi mô và vĩ mô. Xuất phát từ nguyên tắc trên với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chúng ta mong mỏi cho quá trình phát triển triển kinh tế thành công để đến năm 2020 nước ta hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì thế không ai khác, không phải một tổ chức nào khác, một quốc gia nào khác có thể giúp đỡ chúng ta mà chúng ta phải tự vận động, phải tự vươn lên, tự tìm ra con đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất, nguồn gốc của những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là lợi nhuận. Đó chính là yếu tố thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận đóng vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường mà ta lại có thể xem nó là yếu tố chính yếu ? Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Quá trình nghiên cứu nó phải xuất phát từ các quan điểm của các học thuyết trước Mác kết hợp với quan điểm của Mác và thực tiễn hiện nay. Nội dung I. Vai trò của lợi nhuận 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng tới cả chính trị xã hội, văn hoá, nó len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường. Mà ta vẫn biết rằng mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt của nó là tích cực và tiêu cực như thế nào đó để phát huy mọi tính ưu việt và vai trò của lợi nhuận. Với mục đích lợi nhuận các nhà tư bản tìm đủ mọi cách để có được nhiều lợi nhuận. Trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó đã gặp phải sự chống đối mãnh liệt của công nhân chính vì lẽ đó mà họ chuyển sang bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất và bắt buộc người công nhân phải làm việc có năng suất cao hơn. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào khoa học kỹ thuật đặc biệt là vấn đề nghiên cứu, cho nên nó đã khuyến khích các tài năng cá nhân phát triển do vậy mà những phát minh lần lượt được ra đời đặc biệt trong thế kỷ XIX đến XX. Nó đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng yếu tố này đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng, vận hành công nghệ mới vì vậy để quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của mình của người công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ của người công nhân từng bước được nâng cao trình độ trở thành yêu cầu tất yếu của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những lao động có tay nghề cao nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo những nhà khoa học, những công nhân giỏi về phía mình bằng các biện pháp kinh tế, tinh thần. Điều này dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển trở thành một tình trạng báo động cần ngăn chặn. 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển Ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất chính vì lẽ đó lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì ắt phải khiến cho quan hệ sản xuất phát triển theo. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới hình thức nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trìn phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó mục đích lợi nhuận luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu "hiệu quả". Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Có thể giảm biên chế một số bộ phận không cần thiết, hoạt động không có hiệu quả. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bổ lực lượng lao động hợp lý, trong nền kinh tế phải cân đối tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp hặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ lợi nhuận, chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội...Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dươí hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. 3. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất Để biết được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội như thế nào, thì trước tiên ta hãy xét xem quá trình tái sản xuất diễn ra như thế nào. Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng ngày càng hiện đại hóa thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ vốn nói chung, xét về mặt thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm, để mở rộng sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng suất lao động cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và được thực hiện trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất hoặc tư nhân Nhà nước tiến hành. Như vậy, dù ở trạng dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá trị thăng dư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho qúa trình tái sản xuất xã hội. 4. Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt của đời sống xã hội Phân tích theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức, lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa một phần vào các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác, áp dụng các hình thức phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động nhưng cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như từng giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. ở một số nước phát triển, Nhà nước có chú ý về tiền lương trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội nhất là ở các nước Châu Âu mà điển hình là: Thuỵ Điển, Pháp, Anh...quy định mức lương tối thiểu. Khi cần nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục,...bởi vì với sự phát triển mạnh như vũ bão của Khoa học kỹ thuật hiện nay. Quốc phòng trang bị bằng những vũ khí hiện đại, tối tân (có nhiều nước có vũ khí hạt nhân). Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải lắm bắt được Khoa học kỹ thuật và phải có một sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng, nghiên cứu trong quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao chúng ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển nhân tố con người cả mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta chưa được trang bị đầy đủ điều này ảnh hưởng trực tiếp vấn đề thực hành và áp dụng ngoài thực tế dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thường kém năng động, không sử dụng được kiến thức của mình vào cuộc sống và công việc một cách sáng tạo. 5. Vai trò của lợi nhuận trong quan hệ kinh tế quốc tế Lợi nhuận là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng và trao đổi hàng hoá và Khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Để phát huy được sự tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế thì đòi hỏi trong các mối quan hệ kinh tế đó phải có lợi nhuận, bởi vì trong cơ chế thị trường thì một vấn đề có liên quan tới hai chữ "kinh tế" thì không có lợi nhuận không làm. Do vậy trong mối quan hệ này đòi hỏi phải có lợi nhuận và nó đã thúc đẩy các mối quan hệ ngày càng tốt hơn. II .Tác dụng của lợi nhuận đến nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1. Nền kinh tế Việt Nam trước 1986 Trước năm 1986 nền kinh tế Nhà nước là nền kinh tế chỉ huy, ở đó Nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt được lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó là được chuyển vào Ngân sách qua doanh thu như một thách thức thuế ẩn ngầm. Về phía mình, các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước cấp. Trong hệ thống "phân phối"- "phân phối lại" này sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường, mà dựa trên định mức,đánh giá sự công hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí, quyền lực của nó trong hệ thống "phân phối - phân phối lại". Điều đáng nói là hệ thống "phân phối - phân phối lại" là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy nhưng mức độ "tập trung hoá" càng cao thì hệ thống đó càng phình ra, càng có nhiều doanh nghiệp khổng lồ, mà sản phẩm của nó không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại của khu vực vô hình ngăn cản mọi nỗ lực gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng của hệ thống "phân phối - phân phối lại" làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Tuy nhiên, cải cách tự phát không thể khắc phục được một loạt các yếu điểm chẳng hạn như sự mở rộng các loại thị trường nơi mà giá cả cao hơn nhiều lần giá chính thức. Điều đó thúc đẩy gia tăng nạn tham nhũng, buôn lậu dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách. Sự mất cân đối với vĩ mô càng nặng nề hơn vì các doanh nghiệp và hộ gia đình đổ xô vào đầu cơ vàng và ngoại tệ mạnh. Kết quả là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa, với sự mất cân đối với nền kinh tế tự nó đi chệch khỏi trạng thái cân bằng và ngày càng lao sâu vào khủng hoảng. Đó chính là điều xảy ra với Việt Nam năm 1985, khi tình hình kinh tế xấu đi đã buộc Chính phủ phải tiến hành cuộc đổi mới nhằm ổn định lại nền kinh tế. Và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường được bắt đầu. 2. Sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới Trong lúc nước ta đang bị suy thoái trầm trọng, nền kinh tế ngổn ngang thì trên thế giới nền kinh tế phát triển như vũ bão và họ đang trên đà đổi mới và cũng chuyển sang cơ chế thị trường. Ví dụ như Mexico, Chile và Thái Lan đã có mức tăng trưởng nhanh chóng về thu nhập nhờ việc đã chấp nhận chủ nghĩa tư bản và giảm bớt vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế của họ. 3. Sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và những thắng lợi bước đầu Do những hậu quả mà cơ chế kế hoạch hoá tập trung để lại cho nền kinh tế Việt Nam, do xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường trên thế giới, do tính năng động của cơ chế thị trường. Tất cả các yếu tố đó trở thành yếu tố khách quan của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Cải cách kinh tế Việt Nam năm 1986 đã đem lại một số thành tựu đáng khích lệ như: Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính năng động của nền kinh tế, xoá bỏ tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu phát huy nội lực, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Từng bước thực hiện quá trình mang tính quy luật của bước chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với sự tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là nhân tố trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần. Lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước cũng đã đạt được giải phóng khỏi các tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ chế này cũng đã thúc đẩy việc phải sử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu. Với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần: Cơ chế thị trường nước ta còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng khoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết thậm trí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Trước hết cơ chế thị trường nước ta còn thiếu kinh nghiệm, còn chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi, cơ chế thị trường thiếu đồng bộ. Sự chuyển biến đã khá mạnh mẽ trên thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nhưng lại chưa giải quyết đủ những tiền đề cơ bản cho sự tự do này đó là sự tự do về sở hữu. Sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát. Cơ chế vận hành thô sơ, thô thiển, tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của biến chuyển mà phải thực hiện cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị, kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các biện pháp xốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường từng bước. Điều quan trọng là cơ chế này được nhân dân đồng tình và đã phát huy được ứng dụng. 4. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội là toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, không chỉ bao hàm hai yếu tố là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. ở nước ta chế độ sở hữu là chế độ sở hữu toàn dân, cho nên mọi lợi ích nào đó được quyết định là phụ thuộc vào dân. Không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế - xã hội. Tính tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước, chính sách pháp luật Nhà nước. Mục đích của kinh tế thị trường ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Mà xuấtphát từ đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định "định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi. Vì vậy chúng ta theo đuổi lợi nhuận phải đảm bảo hai điều kiện: - Bảo đảm hiệu quả kinh tế, trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi. - Kết hợp giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội để cho nó đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng các lợi ích xã hội vẫn được duy trì. Xét cho đến cùng thì kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi nhuận thu về cao kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán để xác định 3 yếu tố cơ bản của sản xuất đó là: - Sản xuất cái gì ? - Sản xuất như thế nào ? - Bán cho ai ? Qua đó nâng cao tính năng động của nền kinh tế. Việt Nam đang từng bước đi lên trong kinh tế, để có thể giàu có hơn nước ta phải tạo nhiều mối làm ăn, hợp tác với nước ngoài bởi vì chỉ có nội lực không vẫn chưa đủ, nó chỉ là một điều kiện làm tiền đề vững chắc cho quan hệ ngoại giao làm ăn với nước ngoài. Vậy chúng ta quan hệ làm ăn với họ để làm gì ? Để kiếm được lợi nhuận cao hơn so với trong nước, chính vì lẽ đó hiện nay chúng ta quan hệ làm ăn với rất nhiều nước ví dụ như Trung Quốc, các nước khối Nics, Mỹ, Thái Lan, Nhật Bản, Anh, oxtraylia, ASEAN. C - KếT LUậN Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp là cơ sở cho mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm về chính trị xã hội nói lên sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế giáo dục phát triển, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, không làm phương hại tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Ngăn chặn sự xuống cấp thậm trí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội. Lợi nhuận đó là nhân tố gần như là số một của nền kinh tế thị trường mà chúng ta phải đạt được nó, càng nhiều càng tốt. ở nước ta sau hơn một thập kỷ đổi mới. Đảng ta đã khẳng định: Cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, để đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp. Một nước công nghiệp mà ở đó có: GDP tăng gấp khoảng 7 - 8 lần so với năm 1995. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5000 USD, cơ cấu GDP: Công nghiệp khoảng 40%, dịch vụ khoảng 50%, nông nghiệp khoảng 10%: Cơ cấu nông nghiệp là vậy còn riêng trong lĩnh vực công nghiệp phải đạt 2/3 cả dịch vụ trong đó nửa còn lại là nông nghiệp. Tương ứng, mức độ đô thị hoá đạt khoảng 60 - 70% (tính theo dân số). Hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại trên phần lớn các vùng đất nước, với nhiều đầu mối giao lưu và hành lang liên kết với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện điện khí hoá trong cả nước với mạng điện quốc gia phủ khắp lãnh thổ. Trình độ áp dụng tin học hoá chiếm phần lớn các công việc sản xuất, kinh doanh, quản lý. Cuộc sống vật chất trên 90% nhân dân đạt mức sung túc, không còn người nghèo khổ như hiện nay: Mức ăn bình quân 3000 Kalo/Người/Ngay. Tuổi thọ trên 70 khoảng cách giàu nghèo (so 20% số giàu nhất và so với 20% số người nghèo nhất), chênh lệch nhau khoảng 5 - 6lần. Thanh niên được đi học phổ cập cấp II trung học và cố đủ kiến thức nghề nghiệp để làm một việc nhất định. Một phần lớn, chủ yếu là ở đô thị đạt mức phổ cập cấp III trung học. Môi trường sinh thái được giữ gìn và cải thiện (xanh và sạch). Tỷ lệ che phủ của rừng đạt trên 50% diện tích lãnh thổ. Về cơ bản đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đây cũng là lý tưởng về CNXH ở Việt Nam giai đoạn ban đầu. Theo cơ chế thị trường nhưng vẫn giữ vững theo định hướng XHCN. * ý kiến cá nhân - Như đã biết, nước ta mới bắt đầu đổi mới mở cửa đất nước từ năm1986, từ đó đến nay là quãng thời gian chưa phảilà dài, nhưng đất nước ta đã đạt được một số thành tựu bước đầu,điều đó đã khẳng định sự đúng đắn trong đường lối, chính sách của đảng và nhà nước ta.Mở cửa nền kinh tế thực chất là cởi trói nền kinh tế, hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các quá trình kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế đi theo đúng quy luật của nó. Nước ta tiến hành đổi mới muộn hơn so với các nước, tuy có đạt được một số thành tựu nhất định nhưng so với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, so với các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trước quá trình toàn cầu hoá hiện nay thì chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều. Đóng góp vào công cuộc chung của đất nước em xin có một số ý kiến như sau: - Để phát triển thì yếu tố cơ bản đầu tiên đó là vấn đề con người, tức là nguồn nhân lực, lực lượng lao động của chúng ta là rất dồi dào, tuy nhiên chất lượng của đội ngũ lao động không cao, phần lớn mới chỉ là lao động thủ công, trình độ thấp, năng xuất lao động thấp. Vì vậy nhà nước phải chú trọng đầu tư cho việc nâng cao trình độ, kĩ năng cho người lao động đồng thời với việc phân bổ đào tạo tương ứng với kết cấu của các ngành kinh tế - Vốn là yếu tố quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại, hiện nay vốn trong nước không đủ để đầu tư cho các ngành kinh tế, vì vậy chúng ta phải tích cực kêu gọi đầu tư nước ngoài,đồng thời với việc cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ sở hạ tầng,thu hút đầu tư nước ngoài. - Tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các nước đã thành công trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các nước có hoàn cảnh kinh tế chính trị giống như nước ta - Nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của ta... - Để thu được nhiều lợi nhuận, để tăng trưởng thì ta phải nâng cao trình độ của cán bộ quản lý kinh tế của nước ta bằng cách bồi dưỡng và khích lệ nhân tài phát triển. Bên cạnh đó phải đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học thông minh, năng động để nắm bắt được khoa học, công nghệ một cách nhanh nhất, muốn vậy Nhà nước ta phải thực hiện theo Đại hội VIII của Đảng (6-1996) như sau: - Giữ vững độc lập chủ quyền đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản. - Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh. Như vậy ta phải tăng trưởng đi đôi với phát triển đó là xu thế phát triển của thời đại và cũng là con đường ngắn nhất đi lên CNXH ở nước ta. Cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thànhphần ở nước ta. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta nó cũng đồng nghĩa với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: Dịch vụ, yếu tố sản xuất. Tiếp tục đổimới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. Đẩymạnh việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50157.doc
Tài liệu liên quan