Ở vùng núi phía Bắc, lũ quét thường xảy ra trong khoảng từ tháng VI đến tháng X, tập trung vào giai đoạn đầu mùa mưa (khoảng tháng VI – VII) sau đó chuyển dần vào phía Nam; ở Miền Trung và Tây Nguyên, lũ quét xảy ra trong các tháng từ tháng X đến tháng XII (nhiều nhất vào tháng X).
Các vùng có nhiều khả năng xuất hiện lũ quét:
• Miền Bắc:
- Ở hữu ngạn sông Đà: Các lưu vực sông Nậm Pô, Nậm Mức huyện Mường Tè, Mường Lay (Lai Châu); Nậm Pàn, Nậm La tỉnh Sơn La.
- Các lưu vực sông suối nhỏ thuộc tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hòa Bình
- Ở hữu ngạn sông Lô: Ngòi Nạc thuộc tỉnh Hà Giang.
- Ở thượng nguồn sông Chảy thuộc tỉnh Lào Cai.
- Ở hữu ngạn sông Thao: khu vực Ngòi Đum, ngòi Đường thuộc tỉnh Lào Cai.
- Ở thượng nguồn sông Chảy thuộc tỉnh Bắc Cạn.
• Miền Trung và khu vực Tây Nguyên:
- Ở hữu ngạn sông Mã (Thanh Hóa) : Lưu vực khe Luồng.
- Ở hữu ngạn sông Cả: lưu vực khe Choang (Nghệ An); sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố (Hà Tĩnh).
-
- Sông Đại Giang thuộc huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
- Thượng nguồn sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị.
- Thượng nguồn sông Hương thuộc Thừa Thiên – Huế.
- Vùng A Lưới tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Thượng nguồn sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam.
- Ở hữu ngạn sông Đà Rằng: sông Hinh thuộc tỉnh Phú Yên.
- Thượng nguồn sông Sre – Poc thuộc tỉnh Đaklak.
• Miền Đông Nam Bộ: thượng nguồn sông La Ngà, sông Bé thuộc tỉnh Đồng Nai.
19 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3737 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lũ quét - Thiệt hại và biện pháp phòng tránh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhiều nhân tố như nước mưa, động đất, xói mòn, trượt ngầm, nước ngầm,... những mảnh vụn (đất, đá) do trượt đất cuốn đi hoà với nước sông, suối trở thành dòng bùn.
Lũ nghẽn dòng (Debris flood) : Lũ mang nhiều rác, cành cây, đất đá, cuội sỏi.
Sự cố hồ chứa nước nhân tạo : Khi đập của hồ chứa nước bị vỡ, sóng lũ sẽ gây ra lũ quét tương tự như lũ quét nghẽn dòng.
Các dạng lũ quét thường gây thiệt hại ở nước ta là lũ quét sườn dốc, lũ bùn đá và lũ nghẽn dòng.
Nguyên nhân hình thành lũ quét
Những điều kiện thuận lợi cho việc xuất hiện lũ quét ở Việt Nam
Lưu vực là điều kiện đủ để hình thành dòng chảy lũ nhưng lưu vực thường chịu tác động của con người như việc khai thác gỗ củi, đốt, phá rừng làm nương rẫy, khai thác khoáng sản vô tổ chức dẫn đến bề mặt lưu vực bị rửa trôi mạnh mẽ, tập trung dòng chảy nhanh.
Đặc điểm địa hình chia cắt, các dẫy núi cao thường có hướng Tây Bắc - Đông Nam gần như vuông góc với hướng gió mùa Đông Bắc - Tây Nam. Các dãy núi này tựa như bức tưòng thành chặn giữ các dải hội tụ, tạo ra các tâm mưa lớn. Các sông suối có diện tích lưu vực nhỏ (nhỏ hơn 500 km2) nằm ở thượng nguồn các lưu vực sông, đặc biệt là đối với những vùng gần các tâm mưa lớn.
Sườn lưu vực có độ dốc cao từ 15% đến trên 30%, làm cho cường độ dòng chảy mặt lớn và tạo điều kiện cho việc xuất hiện dòng chảy vượt thấm.
Những giai đoạn chính hình thành lũ quét
- Mưa lớn hình thành dòng lũ mặt lớn và đặc biệt lớn tràn ngập trên mặt lưu vực nhỏ của vùng núi dốc, nơi có độ che phủ thảm thực vật nhỏ do bị khai thác mạnh mẽ.
Nước mưa hình thành dòng chảy mặt xói mòn và rửa trôi bề mặt lưu vực làm tăng đáng kể lượng bùn, cát, rác trong dòng nước lũ.
Nước lũ tập trung hầu như đồng thời, đổ về rất nhanh từ các sườn dốc lưu vực (thường có độ dốc trên 20-30%) đổ vào lòng dẫn (thời gian tập trung chỉ 1-3 giờ cho đến dưới 6 giờ). Dòng lũ có tốc độ xói mạnh, tàn phá mọi vật cản trên đường chuyển động, có thể tạo ra lòng dẫn mới, bồi lấp lòng dẫn cũ, làm cho tốc độ truyền lũ về phía hạ du nhanh hơn.
Dòng lũ xói sâu ở những khu vực cao, bồi lắng bùn, cát, đá, rác ở các vùng trũng dọc đường đi như các bãi lầy, đồng ruộng, vườn tược, thậm chí cả những khu dân cư. Như vậy, lũ quét là một hiện tượng thiên tai thường xảy ra ở những lưu vực nhỏ (diện tích không quá 300-400 km2) ở miền núi nơi có độ dốc lớn (trên 15-30%), mức độ khai thác lưu vực lớn chỉ còn lớp phủ thực vật không đáng kể (dưới 10-15%).
Các nhân tố hình thành lũ quét
Lũ quét xảy ra do ảnh hưởng của tổ hợp các điều kiện tự nhiên và các hoạt động của con người trên lưu vực.
Lũ quét
Mưa
Biến đổi khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan
Địa hình
Mạng lưới sông suối
Rừng và thảm phủ thực vật
Tác động của con người
2.2.3.1. Mưa
Trong cùng một lưu vực hoặc một miền, vùng núi thường có lượng mưa lớn hơn vùng đồng bằng, do đặc điểm địa hình có sườn núi chắn gió và các thung lũng có tác dụng hút luồng không khí ẩm từ biển vào. Các tâm mưa lớn của nước ta hầu hết đều tập trung ở các vùng núi có điều kiện địa hình như vậy.
Mưa là nhân tố quyết định gây ra lũ quét, thường tập trung trong vài giờ với cường độ rất lớn trên diện tích hẹp từ vài chục đến vài trăm km2. Điều đó giải thích lý do tại sao nhiều khi lũ quét xảy ra trên một số khu vực lại không đồng bộ với lũ trên sông lớn.
Mưa gây ra lũ quét thường tập trung với cường độ lớn hiếm thấy trong 1giờ hoặc 2 giờ. Mưa với cường suất lớn có ý nghĩa quyết định trong sự hình thành lũ quét. Mưa lớn còn là động lực chủ yếu gây ra xói mòn, sụt lở tạo thành phần rắn của dòng lũ quét.
Bảng 1: Các ngưỡng mưa sinh lũ quét
Thời điểm(giờ)
1
3
6
12
24
Ngưỡng mưa(mm)
100
120
140
180
220
Nguồn: Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương
2.2.3.2. Biến đổi khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan
Theo số liệu thống kê của trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương, có khoảng 70% số thiên tai là do các hiện tượng khí tượng, thủy văn cực đoan gây ra. Biến đổi khí hậu là nhân tố biến đổi chậm. Nhiều đáng giá cho rằng con người đã đóng góp đáng kể vào quá trình biến đổi này mà nguyên nhân chủ yếu là hiện tượng phá rừng và làm hủy hoại môi trường.
Mức độ suy thoái môi trường hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã đến mức báo động.Những hậu quả của suy thóai môi trường có những biểu hiện đáng chú ý là:
Số trận bão ảnh hưởng tới Việt Nam tăng lên, nhất là đối với vùng Trung Bộ.
Tiết mùa khí hậu thay đổi, mưa lũ dị thường đã xảy ra ở một số nơi. Một số vùng bị hạn hán nghiêm trọng đã làm cho nhiều dòng sông bị cạn kiệt, thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, có nơi không đủ nước cho con người sinh hoạt và gia súc.
Mưa, đặc biệt là mưa có cường suất lơn trong một thời gian ngắn tăng lên.Các tháng đầu và cuối mùa mưa có lượng mưa tăng lên. Đợt mưa đặc biệt lớn ở các tỉnh Miền Trung trong những ngày đầu tháng 11 năm 1999 đã chứng tỏ điều đó : Từ ngày 1 tháng 11 đến 4 tháng 11 do ảnh hưởng của đợt không khí lạnh mạnh kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, tiếp sau đó từ ngày 5 tháng 11 đến 6 tháng 11 năm 1999 lại bị ảnh hưởng trực tiếp của áp thấp nhiệt đới đã gây ra mưa to đến rất to trên diện rộng. Đặc biệt ở một số địa phương có cường suất rất lớn như:
+ Tỉnh Quảng Trị trong 5 ngày có lượng mưa trung bình 800 – 1.000 mm, riêng Thạch Hãn có lượng mưa gần 1.500 mm.
+ Tỉnh Thừa Thiên – Huế trong 7 ngày (từ 1/11 đến 6/11/1999) nhiều nơi mưa trên 1.000 mm, một số nơi có lượng mưa trên 2.000 mm, đặc biệt tại A Lưới mưa 2.271 mm, Huế mưa 2.288 mm. Lượng mưa trong 24h (từ 7h ngày 2 đến 7h ngày 3/11/1999) đo được là 1.384 mm.
+ Thành phố Đà Nẵng trong 5 ngày mưa (từ 1/11 đến 5/11/1999) có lượng mưa là trên dưới 1.000 mm.
+ Tỉnh Quảng Nam trong 5 ngày mưa có lượng mưa đo được là 1.000 mm; riêng Hội An là 1.183 mm, Ái Nghĩa là 1.881 mm.
2.2.3.3. Địa hình
Địa hình vùng núi Việt nam nói chung rất dốc, do đó độ dốc lòng sông lớn, đó là một trong những điều kiện thuận lợi để phát sinh lũ quét.
Ở những nơi có địa hình núi cao thường là nơi có lượng mưa lớn và phân hoá rất mạnh. Các lưu vực đã xảy ra lũ quét thường ở nơi có dạng đường cong lõm, địa hình bị chia cắt dữ dội, sườn núi rất dốc (>30%). Độ dốc lòng sông ở phần đầu nguồn rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi hình thành lũ quét. Mặt cắt dọc sông nhiều nơi có điểm gãy mà sau điểm này là vùng thường bị lũ quét ác liệt. Sườn núi dốc chuyển đột ngột sang các mặt bằng bồn địa là đặc trưng của địa hình miền Trung.
Các lưu vực sinh lũ quét thường nhỏ (diện tích <500 km2), sông suối bắt nguồn từ các đỉnh núi cao (khoảng 1000 - 2000m). Lưu vực có hình rẻ quạt hoặc tròn, xung quanh có núi cao bao bọc, có hướng thuận lợi đón gió ẩm hình thành những tâm mưa. Sườn dốc được phủ bởi lớp đất đá có độ liên kết kém, dễ xói mòn, sụt lở. Khi có mưa lớn, lũ quét kéo theo nhiều vật rắn: đá, cát, sỏi, cây cối.
Hình 2: Địa hình dốc dễ xảy ra lũ quét
2.2.3.4. Mạng lưới sông suối
Địa hình chia cắt tạo nên mạng lưới sông suối dày đặc. ở vùng đầu nguồn, nhiều nơi mật độ sông suối lớn hơn 1km/1km2, thậm chí tới 2km/km2. Độ dốc lòng sông, suối lớn nên thời gian tập trung dòng chảy ngắn, tốc độ dòng chảy lớn, năng lượng, sức tải lớn. Độ dốc lòng sông, suối lớn nên dòng nước lũ thường cuốn theo nhiều đất đá, cây cối do xói mòn, sụt lở như đã xảy ra ở nhiều nơi thuộc vùng Tây Bắc nước ta, có nơi trở thành lũ bùn đá.
Các sông suối ở vùng núi phía bắc Việt Nam có độ dốc rất lớn. Độ dốc lòng sông nhiều khi đạt tới 20-30%, một số sông có độ dốc lớn hơn 35% hoặc trên 40%. Do vậy thời gian tập trung lũ nhanh, vận tốc dòng lũ lớn và sức phá hoại cực kỳ nghiêm trọng.
2.2.3.5. Rừng và thảm phủ thực vật
Rừng, lớp phủ thực vật là những yếu tố biến đổi chậm. Song do tác động của con người, sự suy thoái đến một “ngưỡng” mà vai trò lá chắn của rừng không còn nữa, tổ hợp với các điều kiện khác làm lũ quét xuất hiện nhiều hơn.
Cho đến nay, ở nước ta lớp phủ rừng bị phá nghiêm trọng. Khảo sát các lưu vực đã xảy ra lũ quét tỷ lệ rừng còn lại rất thấp, nhiều nơi còn dưới 5% (Nậm Lay 2%, Nậm Na 5%, Nậm Pàn 2%, SaPa 3%,…).
Hình 3: Một góc rừng bị cháy tại Séo Mý Tỷ (Sa Pa)
Sự biến đổi của rừng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành lũ quét, có trường hợp là nguyên nhân chủ yếu gây ra lũ quét. Biết bảo vệ rừng, hơn thế nữa biết trồng rừng để bù đắp lại phần đã bị khai phá, rừng sẽ là bộ máy điều tiết lũ, nó có tác dụng giảm tốc độ dòng chảy mặt, tăng dòng chảy ngầm (chậm lũ), hạn chế sạt lở.v.v... và làm giảm tác hại của lũ quét; thậm chí có trường hợp không để xảy ra lũ quét. Ngược lại, nếu khai thác rừng một cách bừa bãi, nguy hại hơn là để cháy rừng, dẫn đến thảm họa lũ và lũ quét.
2.2.3.6. Tác động của con người
Hoạt động dân sinh kinh tế có ảnh hưởng rõ rệt đối với việc hình thành lũ quét, có những trường hợp có ảnh hưởng quyết định đối với việc hình thành lũ quét. Cùng một lượng và cường độ mưa, nếu lưu vực được bảo vệ rừng tốt có thể không gây ra lũ quét; ngược lại, nếu rừng bị phá, sông suối tiêu thoát kém, là điều kiện làm tăng lũ quét.
Hoạt động dân sinh kinh tế góp phần vào việc gây ra lũ quét chủ yếu do các loại sau:
a. Phát triển dân số:
Dân số càng tăng thì các hoạt động kinh tế, xã hội cũng tăng theo dẫn đến việc làm biến đổi khí hậu, thời tiết và nhiệt độ trái đất tăng lên làm cho các hiện tượng thời tiết nguy hiểm xảy ra với cường độ thường xuyên hơn.
Sự gia tăng dân số dẫn đến các vùng dân cư được mở rộng, dẫn đến nhiều vùng đất bị nhựa hoá, bê tông hoá, làm cho lượng nước ngấm xuống đất bị giảm đi, dòng chảy ngầm hạn chế, dòng chảy mặt tăng lên, nhiều hồ ao bị lấp, nhiều đoạn sông bị co thắt đã gây ra hiện tượng chậm lũ và tiêu lũ kém.
b. Phát triển nông – công nghiệp:
Việc đầu tư phát triển công nghiệp đã chiếm các khu đất rộng lớn làm các khu vực này bị nhựa hóa, bêtông hóa, có nơi làm tắc nghẽn dòng thoát lũ.
Đặc biệt là ở các khu khai thác mỏ, lượng đất san ủi lớn đã làm thay đổi môi trường. Chẳng hạn như khu công nghiệp Tuyên Quang tại 2 xã Xuân Giao và Tăng Long lưu vực Ngòi Thia, sông Thao, trong giai đoạn thi công khối lượng đất đá rất lớn, nhiều đoạn suối bị đất đá xô xuống gây co hẹp lòng dẫn, làm cho lòng dẫn thay đổi lớn.Vì thế, khi có mưa lớn kéo dài, dòng nước từ các sườn núi ào ạt tràn xuống lòng sông suối nơi bị tắc, ứ tạm thời, dẫn đến tình trạng phá vỡ các vùng tắc ứ, tạo dòng dẫn mới, có sức tàn phá rất lớn, gây ra lũ quét nguy hiểm.
c. Phát triển khu dân cư, xây dựng các công trình Giao thông – Thủy lợi và các công trình cơ sở hạ tầng thiếu quy hoạch.: Những tác động của con người vào lưu vực còn do các nguyên nhân sau:
Xây dựng các khu vực dân cư, xây dựng các công trình hạ tầng như đường xá, cầu cống và các vùng canh tác không theo quy hoạch.
Làm ách tắc đột ngột đường thoát lũ.
Xây dựng hệ thống công trình thủy lợi thiếu quy hoạch.: Có nhiều hoạt động của con người trên các sông suối như xây đập các cỡ, xây dựng các công trình trên sông hoặc ven sông làm lòng sông thu hẹp,…ảnh hưởng tới khả năng thoát lũ.
Việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, giao thông trên sông thiếu quy hoạch thường gây ra cản trở dòng chảy, nhất là tính toán không đúng với tần suất lũ có khi gây vỡ công trình làm tăng tính ác liệt hoặc là nguyên nhân chính gây ra lũ quét.
Ví dụ:
Công trình thuỷ nông Huổi Phàn khi thiết kế dựa vào tài liệu thuỷ văn từ 1959-1964, lưu lượng lớn nhất 3.000m3/s; ngày 17/7/1994 lũ lịch sử đã xảy ra với lưu lượng đỉnh lũ 4.090m3/s, hậu quả là công trình đã bị vỡ.
Việc xây dựng các hồ chứa nước kiểu bậc thang ở Đắc Lắc, các hồ chứa nước này chỉ thiết kế với tần suất P = 5%, khi gặp lũ lớn khẩu diện tràn không đủ tiêu đã dâng cao làm vỡ đập đất. Khi hồ chứa nước ở phía thượng lưu bị vỡ sóng lũ tràn xuống các hồ phía hạ lưu đã gây ra vỡ liên tiếp 4 hồ chứa nuớc và kéo theo 4 đập bối dâng nước khác cũng bị vỡ. Các hồ, đập này vỡ, gây ra sóng lũ quét làm trôi 22 nhà, thiệt hại tài sản của 38 nhà khác, chết 22 người.
d. Chặt phá rừng và cháy rừng
Ở Việt Nam cháy rừng là hiện tượng thường xuyên xảy ra, nhưng về mức độ nhiều năm không thể thống kê được đầy đủ. Trong 36 năm qua, từ năm 1963 đến năm 1998 cả nước đã xảy ra 5.492 vụ cháy rừng, thiêu huỷ 630.059 ha rừng kinh tế bao gồm rừng trồng và rừng tự nhiên, chưa kể hàng chục vạn ha đồng cỏ, cây bụi lúp xúp.
Cháy rừng đã gây ra nhiều tác động suy thoái môi trường, trong đó tác động phá vỡ cấu tượng đất, do mất lớp thảm mục nên đã làm tăng độ chặt của lớp đất mặt và dẫn đến làm giảm khả năng thấm nước của đất, gây xói mòn, rửa trôi, làm bạc màu đất, làm mất khả năng giữ nước, điều tiết nước, gây ra lũ lụt. Mặt khác, làm tăng nhiệt độ mặt đất dẫn đến hiện tượng sa mạc hoá, gây nên lũ quét, lũ bùn đá.
e. Khai thác lưu vực
Quá trình khai thác lưu vực làm thay đổi đặc tính, cấu trúc đất, lớp phủ thực vật trên đó bao gồm cả việc làm thay đổi địa hình, địa mạo đều có ảnh hưởng tới sự hình thành lũ quét. Khai thác lưu vực là cách nhìn tổng quát mọi hình thức hoạt động của con người trên lưu vực, có thể khái quát thành 2 nhóm:
Nhóm khai thác phổ biến tức là khai thác trên diện rộng, làm biến đổi lớp phủ thực vật và lớp đất bề mặt thường diễn ra ở cả khu vực sinh lũ và chịu lũ như việc khai thác gỗ, củi, phá rừng, đốt nương làm rẫy v...v.
Nhóm khai thác cục bộ bao gồm các hoạt động khai thác trong từng khu vực của lưu vực, địa phương gây biến đổi sâu sắc điều kiện mặt đệm, địa hình, tầng đất mặt, lòng dẫn, làm thay đổi đặc tính thuỷ lực dòng nước, gồm các hoạt động như khai mỏ, khai thác tài nguyên, khoáng sản, đào vàng, xây dựng nhà cửa, cầu cống, đường xá, đập ngăn nước, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện.
Phân vùng khả năng xuất hiện lũ quét
Ở vùng núi phía Bắc, lũ quét thường xảy ra trong khoảng từ tháng VI đến tháng X, tập trung vào giai đoạn đầu mùa mưa (khoảng tháng VI – VII) sau đó chuyển dần vào phía Nam; ở Miền Trung và Tây Nguyên, lũ quét xảy ra trong các tháng từ tháng X đến tháng XII (nhiều nhất vào tháng X).
Các vùng có nhiều khả năng xuất hiện lũ quét:
Miền Bắc:
Ở hữu ngạn sông Đà: Các lưu vực sông Nậm Pô, Nậm Mức huyện Mường Tè, Mường Lay (Lai Châu); Nậm Pàn, Nậm La tỉnh Sơn La.
Các lưu vực sông suối nhỏ thuộc tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hòa Bình…
Ở hữu ngạn sông Lô: Ngòi Nạc thuộc tỉnh Hà Giang.
Ở thượng nguồn sông Chảy thuộc tỉnh Lào Cai.
Ở hữu ngạn sông Thao: khu vực Ngòi Đum, ngòi Đường thuộc tỉnh Lào Cai.
Ở thượng nguồn sông Chảy thuộc tỉnh Bắc Cạn.
Miền Trung và khu vực Tây Nguyên:
Ở hữu ngạn sông Mã (Thanh Hóa) : Lưu vực khe Luồng.
Ở hữu ngạn sông Cả: lưu vực khe Choang (Nghệ An); sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố (Hà Tĩnh).
Sông Đại Giang thuộc huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
Thượng nguồn sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị.
Thượng nguồn sông Hương thuộc Thừa Thiên – Huế.
Vùng A Lưới tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thượng nguồn sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ở hữu ngạn sông Đà Rằng: sông Hinh thuộc tỉnh Phú Yên.
Thượng nguồn sông Sre – Poc thuộc tỉnh Đaklak.
Miền Đông Nam Bộ: thượng nguồn sông La Ngà, sông Bé thuộc tỉnh Đồng Nai.
Tai biến đi cùng lũ quét
Thực tế điều tra cho thấy, ở khu vực đồi núi lũ quét- lũ bùn đá thường là dạng tai biến đồng hành với nứt - sụt đất, trượt lở đất, xói mòn đất nên những thiệt hại gia tăng gấp bội và phát triển trên diện rộng ở nhiều tỉnh.
Hình 4: Lũ quét tạo nên nhg vết nứt ở xã Mường Vi (Bát Xát - Lào Cai 8/2010)
Hình 5: Đường sạt lở sau lũ quét ở Lào Cai (9/2010)
2.4. Thiệt hại do lũ quét gây ra
Hình 6: Hậu quả sau cơn lũ quét tại xã Cat Thịng - huyện Văn Chấn – tỉnh Yên Bái (9/2005)
2.4.1. Thiệt hại trực tiếp
Theo “Báo cáo tình hình lũ quét, sạt lở đất và công tác chỉ đạo phòng tránh các năm vừa qua, lũ quét, lũ ống, lũ bùn đá, sạt lở đất,… xảy ra liên tiếp, bất ngờ, sức tàn phá lớn, gây tổn thất nghiêm trọng về người, tài sản, công trình hạ tầng và phá hoại môi trường sinh thái ở các tỉnh miền núi. Nhiều trận lũ quét lớn làm nhiều hộ thiệt hại gần như cả gia đình.
Trong 10 năm qua (từ năm 2000 đến năm 2009) đã xảy ra 96 trận lũ quét, ảnh hưởng tới các vùng dân cư, làm chết và mất tích 883 người; bị thương gần 1.500 người; hơn 6.000 ngôi nhà bị đổ trôi, hơn 120.000 căn nhà bị ngập và hư hại nặng; hơn 132.000 ha lúa và hoa màu bị ngập, hàng trăm ha đất canh tác bị vùi lấp; nhiều công trình giao thông , thủy lợi, dân sinh kinh tế bị hư hỏng nặng nề => Tổng thiệt hại ước tính trên 6.000 tỷ đồng.
2.4.2. Thiệt hại gián tiếp và lâu dài
Xét với một vùng cụ thể, tai biến lũ quét không chỉ gây ra hậu quả nặng nề cho vùng ở thời điểm hiện tại mà nhiều lúc, nhiều nơi hậu quả còn kéo dài.
2.4.2.1. Kinh phí cho khắc phục hậu quả, ổn định sinh hoạt sản xuất của nhân dân
Một việc làm cấp thiết sau tai biến là phục hồi tái định cư cho một bộ phận không nhỏ dân cư phải sơ tán trong tai biến. Hàng loạt các vấn đề phải giải quyết như cung cấp lương thực cứu đói, nước sạch, điều trị bệnh tật, sửa chữa hoặc xây dựng lại nhà ở v.v. Để giải quyết các vấn đề cấp thiết đó đòi hỏi phải có một lượng kinh phí không nhỏ, nhiều lúc vượt quá khả năng của vùng.
Hình 7: Những ngôi nhà bị lũ quét chỉ còn nền, móng.
2.4.2.2. Việc khắc phục các hậu quả về giao thông, thủy lợi, nông nghiệp, các công trình hạ tầng cơ sở
Lũ quét thường phá huỷ nặng nề các công trình Giao thông, Thuỷ lợi, Nông nghiệp và các công trình hạ tầng cơ sở. Đặc biệt, đất đá và dòng bùn có lúc, có nơi đã vùi lấp hoặc làm xói lở một diện tích lớn đất đai nông nghiệp, hoa màu, dẫn tới làm gián đoạn sản xuất nông nghiệp, giảm năng suất và sản lượng lương thực, có nơi ruộng đồng bị xói lở hoặc bị đất đá vùi lấp từ 1 – 2m đã làm mất hẳn diện tích canh tác. Những điều này có thể dẫn đến nạn phá rừng tiếp tục gia tăng để khai thác đất đai hoặc gia tăng các hoạt động phá rừng vô tổ chức để tìm kiếm các nguồn lợi khác nhằm thay thế phần đất đai đã mất.
Mặt khác, do đại bộ phận các khu vực bị lũ quét là những vùng xa xôi hẻo lánh, mưa lớn không chỉ gây ra lũ quét mà còn gây ra sạt lở làm tắc nghẽn giao thông, khiến cho khó tiếp cận những vùng bị thiên tai. Những thiệt hại này đã cản trở những nổ lực của cộng đồng trong và ngoài khu vực ảnh hưởng trong việc tự khắc phục và thực hiện công tác cứu trợ, cứu nạn nhằm ổn định nơi ở và sản xuất như trường hợp đã xảy ra trong đợt lũ quét vùng Thị xã Lai Châu năm 1990, mưa lớn đã gây ra sạt lở nghiêm trọng làm tắc nghẽn tất cả các ngả đường dẫn đến thị xã Lai Châu như đường Phong Thổ (Lao Cai) – Lai Châu, đường Sơn La – Lai Châu và đường Điện Biên – Lai Châu. Do việc tắc nghẽn đường tiếp tế bằng đường bộ cho Thị Xã Lai Châu, Chính phủ đã phải điều động trực thăng chuyên trở lương thực, thực phẩm và thuốc chữa bệnh đến khắc phục hậu quả trong điều kiện thời tiết xấu không bảo đảm an toàn cho việc dùng trực thăng bay đến những vùng có núi cao hiểm trở.
Hình 8: Mưa lũ gây thiệt hại tại Lai Châu (tháng 7/2009)
2.4.2.3. Kinh phí khắc phục suy thoái môi trường
Môi trường trong vùng xảy ra lũ quét bị xuống cấp là điều không tránh khỏi: các nguồn nước uống và sinh hoạt bị ô nhiễm, đất đai bị rửa trôi vùi lấp ruộng nương, thảm phủ mặt đệm bị phá hoại, cân bằng sinh thái tiểu khu vực có thể bị phá vỡ. Việc trả lại hiện trạng môi trường sau một số tai biến điển hình đòi hỏi nhiều nỗ lực khắc phục trong một thời gian dài và cần có sự hợp sức của nhiều ngành đầu tư sức người và của mới tạo dựng được một môi trường trong sạch như trước khi xảy ra lũ quét.
2.4.2.4. Hậu quả về Văn hóa – Xã hội
Nhiều trường hợp, do tai biến xảy ra có tính lặp lại và đã gây hậu quả nghiêm trọng, buộc phải di dân ra khỏi vùng để tái định cư ở nơi an toàn hơn, do bị lũ quét tàn phá nhiều lần liên tiếp, năm 1996 tỉnh Lai Châu đã phải di dân thị trấn Mường Lay đến nơi ở mới. Việc tái định cư cũng đồng nghĩa với việc tổ chức cho cộng đồng sống, sinh hoạt và sản xuất ở tại một khu vực khác, điều này đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc về kinh tế xã hội. Việc di dời có thể có lúc làm nhạt phai bản sắc văn hoá vùng vốn đã gắn chặt vớí điều kiện địa lý, kinh tế, tập quán và thói quen sản xuất của cộng đồng. Ngoài ra, sau tai biến nhiều di tích lịch sử, thắng cảnh đã bị xuống cấp hoặc bị hư hại.
2.4.3. Những trận lũ quét kinh hoàng trong 10 năm qua ở Việt Nam
Các tỉnh thường xuyên xảy ra lũ quét, sạt lở đất nhất là: Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Bắc Cạn, Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Thuận. Những trận lũ quét điển hình gây thiệt hại lớn về người và tài sản gồm:
Năm 2000, trận lũ ngày 15/7 tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai làm 20 người chết, 25 người bị thương. Trận lũ ngày 3/10 tại bản Nậm Coóng huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu làm 39 người chết, 18 người bị thương.
Năm 2002, trận lũ ngày 16/8 tại huyện Bắc Quang và Xín Mần tỉnh Hà Giang làm 21 người chết, 8 người bị thương. Trận lũ quét lớn nhất trong lịch sử ở các huyện Hương Sơn, Hương Khê và Vụ Quang tỉnh Hà Tĩnh đã làm trên 80% số xã ở Hương Sơn, 50% số xã của huyện Hương Khê, Vũ Quang tỉnh Hà Tĩnh bị ngập, có nơi ngâp sâu từ 3.0 - 4.0 m làm 83 người chết và mất tích, 117 người bị thương.
Năm 2004, trận lũ lịch sử ở 2 xã Du Tiến, Du Già huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang và huyện Bảo Lâm tỉnh Cao Bằng làm 56 người chết, thiệt hại hơn 50 tỷ đồng. Sạt lở đất ở Lào Cai đã làm 48 người và mất tịch; 16 người bị thương trong đó có hộ bị chết cả gia đình.
Năm 2005, sạt lở đất ở Bình Liêu - Quảng Ninh làm 11 người trong cùng 1 gia đình với 3 thế hệ bị chết. Trận lũ quét ở Nghệ An ngày 12/8 làm 16 người chết. Trận lũ quét do ảnh hưởng của bão số 7 ngày 28/9 đã làm 64 người chết, 17 người bị thương, Trận lũ quét ở Văn Chấn - Yên Bái ngày 27 – 28/9 làm 50 người chết và mất tích, 8 người bị thương, ước tính tổng thiệt hại là 162 tỷ đồng.
Năm 2008, do ảnh hưởng mưa sau bão số 4 và bão số 6 đã gây lũ lớn, lũ quét, sạt lở đất ở nhiều nơi thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc như: Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lạng Sơn, Hà Giang, Cao Bằng, Quảng Ninh, Bắc Giang; trong đó nặng nhất ở Yên Bái, Lào Cai, thượng nguồn sông Lục Nam thuộc Bắc Giang và ở Bình Liêu - Quảng Ninh. Lũ quét trong 2 đợt mưa lũ làm 246 người chết và mất tích, hơn 200 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính hơn 3.229 tỷ đồng, trong đó thiệt hại do lũ quét, sạt lở đất là chủ yếu.
Năm 2009, sạt lở đất nghiêm trọng đã xảy ra tại xã Pắc Nậm, tỉnh Bắc Cạn làm 13 người chết và mất tích, 5 người bị thương. Trong vòng 1 tháng từ cuối tháng 9 đến tháng 10, liên tiếp các cơn bão số 9 và số 11 đã đổ bộ vào các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, trong đó các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định , Phú Yên, Kon Tom, Gia Lai, Đăk Lăk… đã xảy ra lũ lớn, lũ quét, sạt lở đất gây thiệt hại lớn về người và tài sản của nhân dân và nhà nước. Số người chết và mất tích 266 người, bị thương 1.146 người, thiệt hại về tài sản do lũ quét và sạt lở đất ước tính hơn 2.000 tỷ.
Từ đầu năm 2010 đến đầu tháng 8 đã xảy ra 8 trận lũ quét, sạt lở trên địa bàn các tỉnh Bắc Cạn, Cần Thơ, Lai Châu, Sơn La, Nghệ An, Hà Giang, làm 10 người chết và mất tích, 33 ngôi nhà bị sập, trôi, hư hại.
Biện pháp phòng tránh
Thông thường, các biện pháp phòng tránh thiên tai nói chung, phòng tránh lũ quét nói riêng ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều được phân ra làm hai loại: biện pháp công trình và biện pháp phi công trình. Mỗi loại biện pháp có những ý nghĩa, tác dụng khác nhau và thường được sử dụng hỗn hợp nhằm hỗ trợ nhau khắc phục những tác động của thiên tai.
Các biện pháp công trình
Trồng và bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn: Từ những phân tích các nguyên nhân hình thành lũ quét nêu ở các phần trên, để đề phòng lũ lụt nói chung và lũ quét nói riêng cần phải tích cực khôi phục rừng phòng hộ đầu nguồn, đặc biệt là các khu vực thường gây ra lũ quét, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, nhanh chóng trả lại cơ chế bão hoà cho lưu vực, hạn chế khả năng tập trung dòng chảy lũ.
Xây dựng các hồ chứa điều tiết lũ ở khu vực thường xẩy ra lũ quét: Ở các khu vực thường xẩy ra lũ quét cần được nghiên cứu kết hợp với việc quy hoạch khai thác trị thuỷ, xây dựng các hồ chứa nước đa tác dụng: chống lũ, tích nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát điện...kết hợp với việc điều tiết lũ, phòng chống lũ quét.
Khai thông các đường thoát lũ: Tổ chức khai thông các đường tập trung lũ ở phía thượng lưu các khu vực cần bảo vệ nhằm mục đích không để sinh ra hiện tượng tắc nghẽn dòng chảy, tích tụ nước tạo ra lũ quét nghẽn dòng. Đồng thời cũng phải tổ chức khai thông các đường dẫn lũ ở phía hạ lưu các khu vực cần bảo vệ để đề phòng hiện tượng tắc ứ sinh ra ngập lụt.
Xây dựng đê, tường chắn lũ quét: Ở các khu vực có điều kiện, xây dựng công trình ngăn lũ quét có thể nghiên cứu xây dựng các tuyến đê hoặc tường chắn lũ quét để giữ dòng lũ chảy trong lòng dẫn, ngăn chặn các tác động của lũ quét đối với khu vực cần bảo vệ.
Phân dòng lũ
Xây dựng bổ sung các tràn sự cố ở các hồ chứa nước
Các biện pháp công trình thường tác động trực tiếp vào dòng lũ quét nhằm chống lại những tác động phá hoại của chúng. Để áp dụng các biện pháp công trình nêu trên cần xuất phát từ điều kiện cụ thể của lưu vực sinh ra lũ quét và khu vực cần bảo vệ. Việc phối hợp hệ thống các bi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lũ quét - Thiệt hại và biện pháp phòng tránh.doc