Tiểu luận Luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ:

+ Xuất phát từ điều kiện xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nữa phong kiến từ đó mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu trực tiếp, cốt yếu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, nhưng không quên nhiệm vụ dân chủ, trong khi thực hiện nhiệm vụ dân chủ, trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.

+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên Hồ Chí Minh chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”.

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) xác định hơn bao giờ hết vấn đề dân tộc giải phóng, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc lúc này cao hơn hết thảy. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

+ Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh xác định: “ về mục đích trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn”.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13696 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộ,Người luôn mang trong mình một tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường,không ngừng đổi mới và sáng tạo.Sự nghiệp và tư tưởng của Người được cả thế giới vinh danh,là ngọn lửa soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thành công và cũng là kim chỉ nam cho cách mạng của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong khối óc và trái tim cửa người Việt Nam của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của người đã thấm nhuần tới từng người dân Việt Nam,là cốt lõi của sự thành công trong con đường kháng chiến,bảo vệ và xây dựng của đảng ta.Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh để vẫy gọi và quy tụ mọi tấm lòng Việt Nam vốn nặng lòng vì quê hương, đất nước. Những người đã trải qua sự thử thách trong gần nửa thế kỷ chiến đấu và chiến thắng. Những người với những hoàn cảnh và điếu kiện khác nhau đã gửi gắm tình yêu nước thương nòi của mình trong nhiều hành động và nghĩa cử không ai giống ai. Làm cho mọi giọt máu của mỗi người Việt Nam cùng chảy về trái tim của dân tộc để rồi toả đi khắp bốn phương nuôi dưỡng hành động vì nghĩa lớn đất nước. Làm được điều đó cũng là cách tao nên được sự đồng thuận xã hội sâu sắc và rộng lớn, có sức vẫy gọi và hội được khối đại đoàn kết toàn dân tộc hường về mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh. "Tư tưởng Hồ Chí Minh" không khép kín, tự đủ, không nhất thành bất biến mà luôn luôn phát triển với dân tộc và thế giới. Phải biết làm cho tư tường Hồ Chí Minh sống trong cuộc sống của mọi người Việt Nam, tiếp tục cho nghị lực và tâm hồn của mỗi con người đang xây dựng cuộc sống của mình, gia đình mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Ngày nay,tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển của Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam.Như vậy,đi qua nhiều thế kỉ và chứng kiến những thành tựu của đất nước ta trong thời gian vừa qua,chúng ta luôn nhận thấy rằng việc ứng dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong đường lối của Đảng ta là một việc làm cần thiết.Người luôn là tấm gương sáng cho từng Đảng viên,cho mọi người Việt Nam và trên toàn thế giới học tập và trong diễn văn đại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh của Người,đã có viết “ Người là hiện than sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội,là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường,đổi mới và sáng tạo”. Điều này góp phần làm nổi bật tính cần thiết và tầm quan trọng trong việc đinh hướng cho việc đi lên của Đảng ta trong thời kì đổi mới ngày này. Đây là một đề tài rất rộng lớn ,mặc dù đã có nhiều cố gắng song bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót do thời gian có hạn và kiến thức thu nhận chưa nhiều rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn Luận điểm TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH.( Có 2 cơ sở ) 1. Cơ sở lý luận: - Một là, Trước khi đến với chủ nghĩa Mác- lê Nin, Hồ Chí Minh đã quan tâm, tìm hiểu những tư tưởng dân chủ tư sản Pháp và Mỹ: Các tư tưởng bình đẳng, tự do, bác ái đã tác động mạnh đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính Người đã từng nói “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ Pháp tự do, bình đẳng, bác ái…thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu sau những từ ấy”. Hồ Chí Minh đã từng nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1791) về quyền bình đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” Bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. - Hai là, Tư tưởng tiểu tư sản như chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. - Ba là, Chủ nghĩa Mác – Lê nin, là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc củng như của tư tưởng- văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Cơ sở thực tiễn: - Thứ nhất, xuất phát từ điều kiện thực tế của Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và trở thành một nước thuộc địa, nữa phong kiến. Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản được dấy lên nhưng đều bị thất bại. Dân tộc Việt Nam đứng trước tình trạng khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. - Thứ hai, xuất phát từ quá trình bôn ba tìm đường cứu nước (1911-1920) qua nhiều châu lục, nghiên cứu một cách sâu sắc xã hội tư bản, xã hội thuộc địa, nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cuộc cách mạng tư sản Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1791), nhất là những năm lăn lộn trong phong trào lao động ở Pháp và cùng hoạt động với những nhà cách mạng từ các nước thuộc địa của Pháp. Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã hiểu được bản chất của chủ nghĩa đế quốc: chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng bị áp bức, bóc lột, đầy đọa. - Thứ ba, xuất phát từ xu thế của thời đại, đó là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới được mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga đã tác động sâu sắc đến tư duy của Người về mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, nhất là khi Người được tiếp cận với Luận cương của Lê Nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Việc Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp tại Đại hội Tua (12-1920) đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lê Nin, từ người yêu nước thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình. Người khẳng định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tiểu kết: Như vậy, bằng một cuộc khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận trên bình diện rộng lớn ở trong nước và thế giới, Hồ Chí Minh đã gặp chủ nghĩa Mác- lê Nin. Nhận rõ con đường cứu nước, con đường cách mạng của dân tộc, Người kết luận: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản”. II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH. 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH. 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây: - Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. + Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. + Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào. Theo Hồ Chí Minh quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được quyền độc lập ấy. - Hai là, Giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng. + “Nếu nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài. - Ba là, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. + Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng và tìm mọi giải pháp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, hết sức tránh xung đột, tránh chiến tranh. Năm 1946 Người cùng với Trung ương Đảng chủ động ký hiệp định sơ bộ 6-3, rồi chính Người trực tiếp ký tạm ước 14-9 với Chính Phủ Pháp với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp bằng con đường hòa bình. Khi thực dân Pháp khiêu khích gây xung đột, Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân Việt Nam kiên trì thi hành những điều khoản đã ký trong tạm ước. Đồng thời người cũng kêu gọi những người Pháp vì lợi ích của hai dân tộc Việt- Pháp mà chấm dứt những hành động khiêu khích. Khi chiến tranh nổ ra, trên cơ sở kiên quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn luôn bày tỏ mong muốn sẵng sàng đàm phán với chính phủ Pháp để kết thúc cuộc chiến tranh, lập lại hòa bình, tránh làm tổn hại tiền của, xương máu của hai dân tộc. - Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. + Chủ nghĩa yêu nước với tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác., phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản. + Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tư tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. + Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh. 1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH bao gồm: Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giaỉ phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. Năm là, chủ nghĩa xã hội là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tóm Lại: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng với nhau, gắn liền nhau, phản ánh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá trình vận động liên tục của lịch sử cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với mỗi nhiệm vụ nhất định của tiến trình phát triển. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” “làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ công nông binh” để đi lên CNXH. 2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 2.1.Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH - Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH, điều này khác với các bậc tiền bối yêu nước trước đó- họ mới chỉ đề cập đến việc giành độc lập dân tộc mà chưa gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với CNXH. - Để có độc lập thật sự cho dân tộc, tự do, hạnh phúc hoàn toàn cho nhân dân không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. - Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản, là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Gắn cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đây là một phát hiện, một sáng tạo lớn về con đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nữa phong kiến. - Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phù hợp với nguyện vọng của dân tộc Việt Nam và xu thế của thời đại quá độ lên CNXH được mở đầu từ cách mạng tháng mười Nga (1917). - Tư tưởng đó được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn của nó cho đến hôm nay. (Đại hội X của Đảng một lần nữa khẳng định: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng HCM). 2.2. Giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề đi lên CNXH: - Thứ nhất, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp: các ông cho rằng: phải giải phóng giai cấp trước thì mới giải phóng được dân tộc và vấn đề giải phóng dân tộc phải phụ thuộc vào vấn đề giải phóng giai cấp. + Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản Mác- Ăngghen đã chỉ rõ “hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”. + Lê Nin cũng cho rằng cần phải ưu tiên đặt vấn đề giải phóng giai cấp vô sản trước: “Các dân tộc phải sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì sự giải phóng giai cấp vô sản chống chủ nghĩa thực dân thế giới”. - Thứ hai, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp: Vận dụng sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và điều kiện thuộc địa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc trước, coi việc giành độc lập cho dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, còn giải phóng giai cấp từng bước thực hiện. *. Vậy phải chăng quan điểm của Hồ Chí Minh trái với quan điểm Mác- Lê Nin? + Về vi mô Hồ Chí Minh đặt vấn đề ở một dân tộc thuộc địa thì phải giải quyết vấn đề dân tộc trước, giành độc lập cho dân tộc thành nhiệm vụ hàng đầu. Điều đó không có nghĩa quan niệm của Bác trái với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, bởi vì đối với vĩ mô thế giới Bác có tư tưởng thống nhất với quan điểm của Mác- Lê Nin, Bác nói: “chỉ có thể giải phóng giai cấp vô sản thì mới có thể giải phóng được dân tộc”, 2 nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của cách mạng thế giới của giai cấp vô sản. Bác nhấn mạnh: “sự cải biến lối này hay lối khác là tùy vào hoàn cảnh từng nơi, từng lúc”. - Theo Hồ Chí Minh, quá trình cách mạng Việt Nam có 2 giai đoạn: Giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ: + Xuất phát từ điều kiện xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nữa phong kiến từ đó mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu trực tiếp, cốt yếu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, nhưng không quên nhiệm vụ dân chủ, trong khi thực hiện nhiệm vụ dân chủ, trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. + Cương lĩnh chính trị đầu tiên Hồ Chí Minh chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”. + Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) xác định hơn bao giờ hết vấn đề dân tộc giải phóng, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc lúc này cao hơn hết thảy. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. + Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh xác định: “ về mục đích trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn”. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu cần phải giải quyết trước tiên, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa: Là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, biến Việt Nam thành một nước có lực lượng sản xuất hiện đại, văn hóa tiên tiến, nhân dân làm chủ. Tiểu kết: Như vậy, hai giai đoạn cách mạng nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ giai đoạn trước hoàn thành tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn sau và không ngừng phát triển theo một quy luật dẫn tới mục đích. 2.3. Xây dựng CNXH là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc lập dân tộc: - Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên CNXH, còn CNXH là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu xa của cách mạng Việt Nam. - Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng DTDC được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền độc lập dân tộc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển. - Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân và nền độc lập của dân tộc. - Hồ Chí Minh đã thực hiện việc xây dựng CNXH trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. 3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong cách mạng Việt Nam: 3.1. Phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. - Để tập trung sức mạnh toàn dân giải quyết thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “trước hết phải có Đảng cách mệnh…” và Đảng phải có cương lĩnh, đường lối, chủ trương, mục tiêu đúng đắn. Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”, “Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác- Lê Nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. - Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh đó là một nguyên tắc. Vì vậy Đảng phải thường xuyên củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của cách mạng. 3.2. Phải xây dựng, củng cố, tăng cường liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. - Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là sự nghiệp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cho nên Người chủ trương vận động sự tham gia của tuyệt đại bộ phận các thành phần trong cộng đồng dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân. - Bộ phận trung tâm trong lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là công nhân, nông dân và khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. - Bên cạnh hai động lực chính của cách mạng là công- nông, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng đến việc liên minh với các giai cấp, các tầng lớp trong cộng đồng dân tộc như trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, cả một bộ phận trung và tiểu địa chủ có tinh thần yêu nước. - Việc sắp xếp, bố trí các lực lượng cách mạng của Hồ Chí Minh vừa đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, vừa phù hợp với dân tộc Việt Nam. 3.3. Cách mạng Việt Nam phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới. - Khi đến với chủ nghĩa Lê Nin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn thì cũng là lúc Hồ Chí Minh gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. - Cách mạng Việt Nam phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời phải tranh thủ được sự ủng hộ của cách mạng và các lực lượng tiến bộ thế giới; phải có trách nhiệm với phong trào giải phóng dân tộc dân chủ và tiến bộ trên thế giới. - Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh: trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trong xây dựng CNXH nhờ đoàn kết với cách mạng trên thế giới mà cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng CNXH của nhân dân Việt nam đã được bạn bè quốc tế hết lòng, hết sức ủng hộ. III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH. 1. Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng HCM: - Đại hội VI của Đảng, đã mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước. Đại hội đã rút ra những bài học lớn trong đó bài học đầu tiên là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta….”. - Đại hội VII, VIII, IX, X tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng và một lần nữa khẳng định: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. - Thực hiện đổi mới, Đảng ta khẳng định: đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. - Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. - Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. - Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn nhạy bén với cái mới. 2. Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới như Đảng ta khẳng định là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ XD và bảo vệ Tổ quốc. - Qua 20 năm đổi mới đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao… - Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH tiếp tục soi sáng là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25339.doc
Tài liệu liên quan