Tiểu luận Luật tục người Ê Đê

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu.

I.Khái quát về dân tộc Ê Đê.

II.Luật tục Ê Đê

1.Cơ cấu luật tục Ê Đê.

2.Về nội dung của Luật tục Ê Đê.

3. Cơ chế luật tục.

4.Ngôn ngữ diễn đạt.

III. Mấy suy nghĩ về các Điều luật bảo vệ rừng của người Ê Đê.

 

IV.Kết luận.

Tài liệu tham khảo.

 

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6299 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Luật tục người Ê Đê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hản ánh văn hóa pháp lý của một dân tộc – một bộ phận hợp thành khối dân cư thống nhất ấy. Trong bài viết này, nêu một số suy nghĩ về luật tục Ê Đê nhìn từ góc độ văn hóa pháp lý. KHÁI QUÁT VẾ DÂN TỘC Ê ĐÊ Người Ê Đê hay Đêgar, còn có các tên gọi khác là Rađê. Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam người Ê Đê được gọi là Rađê. Ước tính hiện nay có khoảng 330.348 người Ê Đê cư trú tập trung ở tỉnh Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt Nam. Tại một số quốc gia khác, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song chưa có số liệu chính thứcĐặc điểm kinh tế:Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông. Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi sự mầu mỡ. Ngày nay người Êđê gắn mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao... Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, bò, voi. Người dân ở đây còn tự làm ra đựơc đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm. Hôn nhân gia đình:Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ. Văn hóa:Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M'lan... Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều người yêu thích. Nhà cửa: Nhà sàn của người Ê Đê Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp... Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang. Trang phục:* Thiếu nhi người Ê Đê Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê Đê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa. *Trang phục nam: Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố. Áo có hai loại cơ bản: Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe. Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên,... Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ. *Trang phục nữ:Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân. Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm). Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín. Tôn giáo:Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành và đạo Thiên chúa. Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Những người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình. Tiếng nói: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia. Tiếng Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia, Philipin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập, Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-Khmer, Khmer,Lao, Viet,Phap. Hầu như nói và viết đều có sự khác biệt, khi nói chữ "Kngan" nghĩa là "Tay" người Êđê chỉ phát âm là " Ngan" o mot so vung. Đăc biệt vùng Buôn Đôn mot số người Êđê nói tiếng Lào . Măc dù vậy trong khi lễ tôn giáo và các ngày Lễ hội họ vẫn sữ dụng Tiếng và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc), cùng với sự phat trien và vai trò to lớn của đạo Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei mrâo mrang jăk Đêgar", sự thống nhất càng thể hiên rõ, Tin lành Đêgar là niềm kiêu hãnh văn hóa của người Ê Đê sau sử thi Đam San. Chữ viết:So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. LUẬT TỤC NGƯỜI Ê ĐÊ Mặc dù cuộc sống còn hoang sơ, nhưng sự hình thành luật tục của người Ê Đê đã phản ánh nhu cầu khách quan là: cần quản lý, phối hợp và điều chỉnh những mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng để duy trì sự tồn tại và phát triển. Trong quá trình đó, luật tục đã dần dần được hình thành từ những kinh nghiệm được chắt lọc qua cuộc sống của nhiều thế hệ, góp phần tạo nên các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc, cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, pháp lý theo quan niệm của người Ê Đê. 1. Cơ cấu Luật tục Ê Đê: Là một văn bản thành văn của người đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê có 236 Điều của luật tục đã được sắp xếp thành 11 chương. Xuất phát từ một thực tế là do trình độ sản xuất thấp kém nên những quan hệ dân sự trong cộng đồng người Ê Đê còn rất mờ nhạt, đặc biệt là quan hệ trao đổi hàng hóa (mua bán, vay mượn), chỉ được quy định trong 6 điều, từ điều 186 đến điều 191 với nội dung rất đơn giản. Số lượng điều luật chiếm nhiều nhất và cũng chặt chẽ nhất là những điều luật quy định về Hôn nhân và gia đình (54 điều), đó là nhóm quan hệ xã hội rường cột nhất chi phối đời sống của từng cá nhân trong cộng đồng. Có thể thấy rằng, luật tục đã rất xem trọng yếu tố con người trong mối tương quan với thế giới tự nhiên, với cộng đồng và tín ngưỡng. Thứ đến là vấn đề sở hữu tài sản, được quy định trong 38 điều, nhưng đó là tài sản của gia đình mẫu hệ. Mọi của cải trong gia đình đều thuộc quyền quản lý của mẹ hay người đại diện cho mẹ là chị cả. Việc thừa kế tài sản cũng được tính theo dòng mẹ. Một phần của cải của người chồng đã chết cũng phải đem trả về cho mẹ hay chị em gái của anh ta (điều 182). Nhóm những điều luật chiếm vị trí thứ 3 về số lượng với 33 điều quy định mối quan hệ giữa người đứng đầu buôn với các thành viên, nhằm đảm bảo kỷ cương, đảm bảo quyền dân chủ, bình đẳng trong quan hệ cộng đồng buôn làng. 2. Về nội dung của Luật tục Ê Đê: Như các tác giả trong quá trình nghiên cứu và sưu tầm luật tục đã nhận định: Luật tục ở mức độ nào đó chỉ mới bó hẹp trong phạm vi một buôn. Nhưng luật tục Ê Đê đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống, từ sản xuất, tổ chức xã hội và quan hệ cộng đồng, gia đình và quan hệ gia đình, quan hệ nam nữ đến lễ nghi, tín ngưỡng… Luật tục đã phản ánh tư duy duy lý dân gian của người Ê Đê trong quá trình tồn tại và phát triển. Những khuôn khổ, cách thức sống được đặt ra không đơn thuần là sự nhận thức cảm tính mà đã được định hình bằng những lý lẽ được coi như chân lý mà ai cũng phải nghe theo, không còn sự lựa chọn nào khác. Ví dụ như: Trong gia đình con cái phải nghe theo lời cha mẹ, ngoài cộng đồng mỗi thành viên phải nghe theo lời của trưởng buôn, ai làm trái với điều ấy phải đưa ra xét xử, đó là quy tắc. Những lý lẽ đưa ra để thuyết phục người ta cần phải xử sự theo quy tắc đó là: “Có cây đa thì phải hỏi cây đa, có cây sung thì phải hỏi cây sung, có mẹ cha thì phải hỏi mẹ cha. Kẻ như lưỡi dao lại muốn dày hơn sống dao, là một trẻ nít lại muốn khôn ngoan hơn người lớn; có mẹ, có cha mà không hỏi mẹ cha. Có cây đa đầu suối, có cây sung đầu làng, người trông nom dân làng mà không hỏi. Hắn đi rừng lấy củi mà không hỏi cha, đi suối lấy nước mà chẳng nói với mẹ; bán cái này, mua cái nọ mà không hỏi các ông già bà cả. Như vậy là có chuyện sai lầm phải đưa ra xét xử” (Điều 27). Những lý lẽ ấy đã được bắt nguồn từ chính cuộc sống hiện thực mà con người không thể phủ nhận, tạo cho họ niềm tin và dẫn dắt họ trong cuộc sống. Xuyên suốt 236 điều trong luật tục là tính cộng đồng với tinh thần bình đẳng, dân chủ, bác ái. Dù là việc xảy ra trong một gia đình, một dòng họ như: kết hôn, sinh tử… mọi người vẫn ghé vai gánh vác xem như đó là công việc chung. Cho đến những việc như sửa sang bến nước, tế lễ thần linh hoặc hệ trọng hơn như bảo vệ an ninh cho buôn làng, các chủ hộ đều được chủ làng, chủ bến nước mời tới bàn bạc và đóng góp. Trẻ mồ côi, người thiếu ăn, bệnh hoạn, đều được mọi người nâng đỡ, chở che. Lối sống dân chủ, bác ái ấy đã gắn bó con người lại với nhau, mỗi người, mỗi nhà đều tự coi là một thành viên không thể rời xa cộng đống. Luật tục đã quy định rất rõ trách nhiệm của mỗi cá nhân, của cá nhân với cộng đồng, đồng thời cũng nêu rõ trách nhiệm của thân tộc đối với mỗi thành viên trong dòng họ, nhằm mục đích tạo nên sự bình đẳng giữa các thành viên. Không có sự phân biệt, ưu đãi tầng lớp trên, hoặc ngược đãi tầng lớp dưới trong mọi lĩnh vực của đời sống buôn làng. ] 3.Về cơ chế điều chỉnh của luật tục: Luật tục được hình thành và tồn tại trong đời sống của người Ê Đê đã đáp ứng được nhu cầu khách quan mà bất kỳ một cộng đồng người nào, một thiết chế xã hội nào cũng cần đến, đó là nhu cầu về quản lý. Nhưng do phương thức sản xuất còn ở trình độ thấp nên nhu cầu quản lý cũng như tính chất của hoạt động quản lý còn khá đơn giản, vì thế nên luật tục có cơ chế điều chỉnh riêng của nó. Bằng nhiều cách thức như: giáo dục, răn đe, xử phạt, luật tục đã tác động đến nhận thức và hành vi của các thành viên trong cộng đồng, tạo nên một trật tự cần thiết cho các hoạt động chung như: tổ chức sản xuất, bảo vệ buôn làng… và bảo vệ lợi ích của từng cá nhân, từng dòng họ. Nhưng vượt lên trên các phương pháp cụ thể ấy là nguyên tắc tự quản kết hợp với những quan niệm về tín ngưỡng. Cuộc sống của người Ê Đê gắn bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên, chan hòa với thế giới tự nhiên. Họ lấy từ tự nhiên những sản vật phục vụ cho nhu cầu của mình. Dựa vào mặt trời, mặt trăng để định đơn vị thời gian: Ngày đêm (mặt trời), tháng (mặt trăng), năm (mùa rẫy, mùa hoa, mùa chim bay về và bay đi). Tuy vậy, con người vẫn thấy bất lực trước thiên nhiên, vũ trụ bao la. Những tai họa cứ bất thần ập đến, tàn phá cây trồng, giết hại người và gia súc… con người trở nên nhỏ bé, yếu ớt và họ tìm chỗ dựa tinh thần bằng việc tưởng tượng ra các vị thần linh, và tin rằng chỉ có các vị thần ấy mới có sức mạnh hơn con người. Thần Aê Điê là thần tối cao trông coi cả 3 thế giới: tầng trời, mặt đất và tầng dưới đất; các thần thời tiết: Yang Liê (bão tố), Yang Briêng (thần tai nạn)… mỗi thần đều có tác động nhất định đến con người. Mùa màng bị tàn phá là do sự trừng phạt của thần ác đối với con người. Khi được mùa là do thần thiện ưu ái với con người. Và để các vị thần vừa lòng mà ra tay giúp đỡ, hay ngưng lại sự trừng phạt, con người phải tổ chức những lễ nghi cầu khấn, suy tôn. Sự gắn bó con người với các vị thần linh đã hình thành nên cơ chế tự điều chỉnh, con người cảm thấy có một lực lượng vô hình luôn kiểm tra, theo dõi và uốn nắn hành vi của họ. Vì thế mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình, dòng họ đều tự răn mình và giáo dục các thành viên khác điều chỉnh hành vi theo quy định của luật tục, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn đến lợi ích của người khác và của cộng đồng, hướng con người tới các điều thiện. Khi các cá nhân không tự điều chỉnh và có sự vi phạm luật tục hoặc có những mâu thuẫn, xung đột với nhau mà không tự giải quyết được thì sẽ có sự can thiệp của cộng đồng bằng một thiết chế có tính quyền lực – Tòa án phong tục. Trong mỗi buôn Ê Đê đều có những Khoa phat kđi – là người am hiểu và thông thuộc luật tục, có uy tín trong buôn làng (thường là các già làng) – đứng ra giải quyết các mâu thuẫn, xung đột. Trong xử kiện, Khoa phat kđi đọc luật tục (bằng văn vần) và sử dụng các biện pháp của nghi thức cổ truyền, rồi sau đó phán xử như một ông chánh án được tín nhiệm tuyệt đối. Khi mỗi bên nguyên, bên bị đã được xét xử xong, bao giờ cũng kèm theo một nghi lễ nhằm chấm dứt những thù oán giữa các bên với sự chứng giám của các vị thần linh và dân chúng. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là, những điều ghi trong luật tục cũng như cách giải quyết của tòa án phong tục chủ yếu là hòa giải, giáo dục hơn là kết tội, trừng phạt. Ngay cả khi một người bị quy tội thì biện pháp trừng phạt thực chất vẫn là một hình thức hòa giải, giáo dục. Hiện nay, Tòa án phong tục chỉ còn có ở những vùng xa các đô thị, xa các trục lộ giao thông chính. Những nơi không còn tòa án phong tục thì thay vào đó là nhóm, tổ hòa giải để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong buôn trên cơ sở luật tục, mà biện pháp chính vẫn là hòa giải, giáo dục, răn đe. Chỉ khi nào Tổ hòa giải không xử lý được thì vụ việc mới được chuyển lên Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh. Sự vận hành như vậy của luật tục vào đời sống xã hội thật đơn giản. Nó khác với cơ chế điều chỉnh p của Nhà nước được kết hợp bởi nhiều yếu tố và quy trình pháp lý khá phức tạp. Nhưng chính từ cơ chế điều chỉnh đơn giản ấy của luật tục mà các thành viên trong cộng đồng gắn bó với nhau hơn và đó là cơ sở xã hội làm cho luật tục tồn tại lâu dài. 4. Về ngôn ngữ diễn đạt: Trong văn học dân gian truyền thống của người Ê Đê, lời nói vần Duê là một hình thức ngôn từ đặc biệt và phổ biến trong văn chương truyền miệng Ê Đê như tục ngữ, truyện cổ, trường ca, thần thoại, dân ca. Lời nói vần là sự chắt lọc tinh túy từ những tri thức, kinh nghiệm dân gian. Trong giao tiếp, người ta vẫn thường xen vào những câu nói vần như để làm chuẩn mực đối chiếu xã hội. Trong luật tục, những câu nói vần được gọi là Duê Kđi. Nó giống như khẩu ngữ hàng ngày với cách nói ví von, so sánh, hình tượng nhưng cũng rất cụ thể, cách dùng ngoa ngữ để khẳng định điều muốn nói. Nhưng Duê Kđi có tính chất thiêng liêng hơn vì được coi như những câu nói của ông bà tổ tiên, của các thần linh đã để lại cho con cháu. Ví dụ như để trừng phạt những kẻ có hành vi bịa đặt, vu cáo cho người khác về những điều không có thực, luật tục đã mô tả hành vi đó như sau: “Hắn bịa chuyện vu khống cả kẻ sang, người giàu. Hắn nói, họ như một cây gạo đã rỗng ruột, như một cái cối đã thủng đáy trong khi chẳng có tí gì như vậy cả. Có những chàng trai trong làng, những cô gái ngây thơ, những người Mnông, người Bih chất phác thật thà, đã bị hắn đổ cho là đã đi vào bụi vào bờ (lén lút) ăn thịt bò, thịt trâu (đã đánh cắp)…” Có thể thấy, ngôn ngữ trong luật tục hầu hết là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể, sinh động. Những hình ảnh ấy vừa cô đọng, sâu sắc, vừa giản dị, dễ nhớ, dễ lưu truyền làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung và nhận thức bằng trực giác mà không cần đến một sự giải thích nào khác. Với ngôn ngữ ấy, Luật tục đã phản ánh thế giới tự nhiên và đời sống của con người rất cụ thể, được các thành viên trong cộng đồng tiếp nhận và lưu giữ dễ dàng. III. MẤY SUY NGHĨ VỀ ĐIỀU LUẬT BẢO VỆ RỪNG CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ Như đã giới thiệu ở phần cơ cấu Luật tục của người Ê Đê thì Luật tục người Ê Đê gôm rất nhiều Điều luật cụ thể là 236 Điều điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng trong bài viết này em xin phân tích một số Điều Luật của người Ê Đê trong việc bảo vệ rừng. Do cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên hoang dã từ hàng ngàn năm nay, trong tâm thức của người Ê Đê vẫn còn hình ảnh về thiên nhiên vũ trụ huyền bí, rất xa mà cũng rất gần. Một trong những hình ảnh vũ trụ tiêu biểu trong cảm quan của người Ê Đê là Giàng và các thần linh (Thần sông, Thần núi, Thần mặt trăng…), vì rừng có quan hệ mật thiết với cộng đồng dân cư Ê Đê, nên từ xa xưa, người dân nơi đây đã rất có ý thức bảo vệ rừng, tôn trọng các quy tắc của cộng đồng về xác lập chủ quyền đối với rừng và đất rừng của từng gia đình, dòng họ. Chính vì cuộc sống luôn gắng bó với rừng nên người Ê Đê rất coi trọng rừng vì thế không phải mặc nhiên mà Luật tục của Người Ê Đê lại đề cập nhiều đến vấn đề bảo vệ rừng, quy định rất rõ về các tội đốt, phá rừng. Điều 80 của luật tục Ê Đê nói rằng: “Đàn ông thường đốt lửa bừa bãi, đàn bà thường đốt lửa bậy bạ, có những người đốt lửa mà làm như kẻ điên, kẻ dại. Cây le đang đâm chồi thế mà họ chặt mất ngọn, cây lồ ô đang đâm chồi thế mà họ chặt mất đọt. Nếu người ta bắt được họ đem cho người tù trưởng nhà giàu thì chân họ tất phải trói lại ngay, tay của họ tất phải xiềng lại ngay. Cả rừng le bị cháy khô, cả rừng lồ ô bị cháy trụi, hang thỏ, hang chồn đều bị thiêu trụi tất cả. Vì vậy có chuyện nghiêm trọng cần phải xét xử họ”. Phòng cháy rừng:Luật tục cũng răn dạy dân làng không được mang củi cháy dở vào rừng: “Ai có con phải dạy con, ai có cháu phải dạy cháu, kẻo đi hái củi mà không biết đi, đi suối lấy nước mà không biết đi. E rằng họ sẽ đốt đuốc cầm theo. E rằng đi rẫy lo việc nương rẫy mà không biết đi, cầm theo những đầu cây cháy dở có thể hủy diệt cả rừng… Cho nên biết được con đàn bà ấy là ai, thằng đàn ông ấy là ai thì việc xét xử phải đi đến bồi thường nặng”. Quy định về người săn thú rừng:Luật tục quy định rằng trong đời một người chỉ được săn 30 con thú. Săn đến con thú thứ 30 thì phải vĩnh viễn vứt cung nỏ. Thời vua Minh Mạng có một quy định đáng chú ý: Tứ thiết (4 loại gỗ quý là: đinh, lim, sến, táu) chỉ được dùng để xây dựng đền chùa miếu mạo, cấm dân chúng sử dụng. Coi đất là mẹ:Xâm lấn rừng vào đất rừng của người khác nhất định phải đưa ra xét xử: “Điều 231: Đất đai, sông suối, cây rừng là cái nong cái nia, cái lưng của ông bà. Ông bà là người giữ cái hang, trông coi rừng, trông coi cây K’tơng, cây kdjar”. “Điều 232: Có bao nhiêu con, có bao nhiêu cháu đều phải dạy bằng hết cho chúng: Cấm không được đóng cọc vào cây k’tơng, cấm không được trèo lên cây kdjar. Phạm điều cấm đó người ta coi ngang với tội chặt đuôi voi, tội mò vào với vợ tù trưởng nhà giàu, tội thông dâm với vợ của người anh em. Tội đó phải đưa ra xét xử” (Giải thích: người Ê Đê coi đất là mẹ. Đất cao nguyên có cấu trúc lượn sóng nên họ quan niệm đất là cái lưng ông bà. Truyền thuyết Ê Đê cho rằng hang Adrênh là nơi ra đời của người Ê Đê. K’tơng, kdjar là cây thân gỗ mọc trong rừng, ong thường làm tổ trên đó. Luật tục quy định chỉ có chủ đất mới có quyền sở hữu các tổ ong đó). Ăn chậm chứ không phá:Phương thức làm nông là luân canh. Sau 3 năm trồng tỉa người ta lại trả đất cho rừng. Cây rừng tiếp tục phát triển trên mảnh đất đó. Cách “ăn rừng” như thế khá khoa học nên rừng suy giảm chậm. Cũng vì thế mà ngày xưa ra khỏi nhà, cách mấy đoạn dao quăng người ta đã lấy được củi, bẻ được măng, nhặt được nấm.Trong hệ thống pháp luật của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì vấn đề bảo vệ và phát triển rừng đã được luật hóa và phát triển không ngừng. Bắt đầu là Pháp Lệnh quy định việc bảo vệ rừng năm 1972, sau đó là Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 và đến nay là Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thay thế Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 đang có hiệu lực thi hành. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 gồm có 88 Điều luật chia thành 8 chương quy định rất rõ về việc bảo vệ và phát triển rừng. So với Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì Luật tục của dân tộc Ê Đê về bảo vệ rừng thì số lượng Điều luật điều chỉnh là rất hẹp. Điều này không gây ngạc nhiên bởi vì Luật tục Ê Đê ra đời từ rất sớm lúc này đời sống kinh tế xã hội của người Ê Đê còn rất thấp và phạm vi các quan hệ rất hẹp công với hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ nhỏ nên chỉ có một gói gọn trong một vài Điều luật để điều chỉnh là điều dễ hiểu. Còn Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 ra đời trong lúc đời sống kinh tế xã hội phát triển, các quan hệ xã hội ngày càng phát tạp cộng với hiệu lực điều chỉnh trên toàn lãnh thổ Việt Nam nên đòi hỏi cần phải có nhiều Điều luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng phát tạp. Cấu tạo của một Điều luật ( một quy phạm pháp luật) trong hệ thống pháp luật Việt Nam thông thường gồm 3 phần đó là giả định, quy định, giả định. Còn Điều luật của Luật tục của người Ê Đê không cấu tạo như vậy, nó không theo một quy luật nào cả, ngôn ngữ thể hiện theo ngôn ngữ dân gian, dể gây hiểu nhầm và khó hiểu nhưng ta thấy các Điều luật của Luật tục đề cao tính đề phòng và giáo dục rất lớn đây là một trong những ưu điểm của Luật tục. Đối với Điều luật của pháp luật thì phần chế tài rất rỏ ràng và thể hiện ngay trong Điều luật như: phạt bao nhiêu,hình thức phạt, xử lý thế nào…Còn Điều luật của Luật tục cùa người Ê Đê thì thường kết thúc: “Tội đó phải đưa ra xét xử” không quy định chế tài rỏ ràng là phạt cái gì, như thế nào, hình thức phạt…Điều này do hội đồng xét xử quy định tùy theo trường hợp cụ thể. Ta thấy quy định của người Ê Đê về bảo vệ rừng rất nghiêm khắc đặt nặng vấn đề giáo dục của người lớn thể hiện phòng ngừa hơn là xử phạt đây củng là điều mà pháp luật nước ta đang hướng tới. Qua tìm hiểu một số Điều luật tục của người Ê Đê chúng ta đặt ra một câ hỏi thế tại sao lâu nay chúng ta không nghiên cứu đến việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng buôn làng, không tạo điều kiện tốt cho các già làng, trưởng buôn để họ áp dụng những điều tốt đẹp này của luật tục vào vận động đồng bào bảo quản rừng? Theo cách suy nghĩ của em thì chúng ta nên nhanh chóng vận dụng Luật tục của người Ê Đê vào trong các chính sách phát triển và bảo vệ rừng bằng việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng buôn làng, tạo điều kiện tốt cho các già làng, trưởng buôn để họ áp dụng những điều tốt đẹp của Luật tục vào vận động đồng bào dân tộc bảo vệ và phát triển rừng, nghiên cứu xem xét phong tục tập quán nào tốt, phù hợp với cuộc sống hiện đại thì giữ gìn và phát huy; phong tục tập quán nào lạc hậu thì kiên quyết loại bỏ. Đồng thời phải kết hợp hài hòa giữa luật pháp của Nhà nước và luật tục của tộc người, giữa tri thức khoa học hiện đại và tri thức dân gian trong việc bảo vệ rừng, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thiết nghĩ đây là biện pháp tốt để Luật tục phát huy vai trò của mình, phát triển bền vững tài nguyên rừng, nâng cao đời s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận-Luật tục người Ê Đê.doc
Tài liệu liên quan