Với quy luật của cung cầu : khi giá hàng hoá dịch vụ giảm thì lượng cầu tăng. Áp dụng quy luật ấy, để tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của Việt Nam thì việc hạ thấp giá của hàng hoá là mộ biện pháp tốt.Khi ta tìm cách giảm chi phí làm ra sản phẩm (giảm lao động của người sản xuất) cũng là cách giảm giá sản phẩm đó.Có rất nhiều cách để hạ thấp giá trị của hàng hoá như sử dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, khai thác nguồn nguyên liệu đầu vào giá rẻ,vân dụng chính sách phương hướng hợp lí với thị trường .Khi doanh nghiệp có thể tạo ra hàng hoá chất lượng mà giá cả phù hợp đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng thì tất yếu năng lực cạnh tranh sẽ nâng cao đáng kể.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8033 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý luận hàng hóa của C.Mác và việc nâng cao năng lực canh tranh của hàng hóa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
+Giá trị hh là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sx hh
+------------ phản ánh quan hệ giữa n~ ng sx hh
+------------ là thuộc tính xh của hh
_các nhân tố ảnh hưởng
+Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất... nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.+Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hoá là không đổi vì thực chất tăng cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động không có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao động.+Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.
*Kết luận:Hai thuộc tính của hàng hoá vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại trong hàng hoá, một hàng hoá phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá. Tuy nhiên, chúng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một giá trị sử dụng thì hàng hoá khác nhau về chất còn về mặt giá trị thì hàng hoá lại giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong quá trình lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiện trong quá trình tiêu dùng.
1.2 Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
1.2.1 Lao động cụ thể: là lđ có ích dưới 1 hình thức cự thể của 1 ngề nghiệp chuyên môn nhất định.
Những loại LĐCT khác nhau được phân biệt ở công cụ lao động và đối tượng lao động, ở phương pháp tiến hành lao động, ở mục đích và kết quả của lao động.Hình thức LĐCT có thể thay đổi tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học - kĩ thuật và lực lượng sản xuất.
-Lđ cụ thể là cơ sở của phân công lđ xh.KHKT cang fphát triển các hình thức lđ cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú
-Mỗi lđ cthể tạo ra 1 giá trị sd nhất định
-Lđ cthẻ là phạm trù vĩnh viễn
1.2.2 Lao động trừu tượng: là lđ của ng sx hh khi đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy cái chung đồng nhất, hay nói cách # , đó là sự tiêu hao sức lđ của ng sx nói chung.
-Lđ trừu tượng tạo ra giá trị hh
- ----------------- là phạm trù lịch sử, chỉ có sx sp để bán thì lđ sx hh đó mới có tc trìu tượng.
---------------- là lđ đồng nhất và giống nhau về chất.
1.3 Năng lực cạnh tranh hàng hóa
1.3.1 Cạnh tranh về giá trị hàng hóa
*Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác. Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh vực kinh tế, thương mại, luật, chính trị, sinh thái, thể thao.
-Cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...).
-Năng lực cạnh tranh (NLCT) của hh là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Hay nói một cách khác, NLCT của hh được đo bằng thị phần của sản phẩm đó; NLCT của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, v.v.....
-Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động XH tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết để thu được nhiều lãi.
1.3.2 Cạnh tranh về giá trị sử dụng hàng hóa
Chương 2: Vận dụng lý luận hàng hóa của C.Mác để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
2.1 Năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
2.1.1 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
Năm 2007 và cả năm 2008, kim ngạch XK tăng mạnh (năm 2008, trong bối cảnh khó khăn của thị trường XK, kim ngạch XK vẫn tăng 29,5% so với năm 2007); đầu tư nước ngoài lập kỷ lục tăng gấp 3 lần so với mức thu hút đầu tư năm trước. Tuy nhiên, với đà sản xuất của hiện nay, tăng trưởng sẽ đến một chừng mực giới hạn và chỉ có thể tăng trong ngắn hạn. Muốn tăng trưởng lâu dài, nhất thiết phải cơ cấu lại sản xuất, vì nhiều ngành sản xuất đang sử dụng công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chi phí trung gian cao.
Đặc biệt, năm 2008, trong tốc độ tăng trưởng XK có yếu tố tăng giá tác động rất lớn, phần gia tăng giá trị sản xuất không lớn. VN đang phải đối mặt với thách thức lớn về nhập siêu tăng lên. Năm 2007, tỉ lệ nhập siêu/xuất khẩu là 29,1%, năm 2008 tỉ lệ này vẫn ở mức cao 27%. Nhập siêu tăng, chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng hoá kém.Với nền kinh tế mới nổi còn đang trên đà phát triển những bước đầu tiến lên trở thành nước công nghiệp thì sức cạnh tranh của ta còn kém bị sức ép từ nhiều phía.Xuất siêu chưa nói lên được nước ta có năng lực cạnh tranh.Hiện nay nước ta xuất khẩu hàng thô và những mặt hàng nông nghiệp là chính vì thế không thể đánh giá nước ta có sức cạnh tranh cao.Sức cạnh tranh của nền kinh tế được biểu hiện rõ nhất là sức chống đỡ trước khủng hoảng. Mỗi một tác động từ bên ngoài cũng khiến thị trường trong nước gặp những cơn dư chấn. Trong khi đó, năng lực phản ứng chính sách của chúng ta chưa linh hoạt. Những tháng đầu năm 2008, do phản ứng chính sách thiếu nhạy bén về điều hành chính sách tài khoá và tiền tệ, đã tác động xấu đến thị trường, DN gặp nhiều khó khăn. Chỉ khi Chính phủ đưa ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát thì thị trường mới đi vào ổn định.
2.1.2 Ưu thế và hạn chế trong cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
*Ưu thế:
-là một nền kinh tế đang lên với tốc độ phát triển cao:tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm 2002: 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao tạo được niềm tin với các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế.
-Việt Nam có giá nhân công rẻ, trình độ dân chí khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về chính trị và một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ
- tài nguyên thiên nhiên kháng sản với trữ lượng lớn phong phí phân bố trên toàn lãnh thổ thuận tiện sản xuất sản phẩm
- về vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông sản xuất hàng hoá giảm chi phí cho sản phẩm làm ra nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá
- thu hút lượng FDI trên toàn thế giới vào VN thì tăng từ từ qua các năm tuy không nhiều đầu tư vào tất cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế
-hội nhập với n` tổ chức kinh tế chính trị như ASEAN, WTO,… tạo thị trường mở rộng lớn cho hàng hoá lưu thông
*Khó khăn : phải khẳng định là nền kinh tế nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức lớn. đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền kinh tế ta có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh tranh yếu. trình độ công nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém. chất lượng lao động được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu ngày một khắt khe của nền kinh tế, người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng động, chính sách dù được cải thiện còn nhiều bất cập... bên cạnh đó, các nền kinh tế khác và đặc biệt là, Trung Quôc, khu vực Đông Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt với Việt Nam....Cũng do tham gia vào các tổ chức kinh thế thế giới, khu vực mà sức ép cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam ngày càng cao nhất la trong thời buổi suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay.
2.1.3 Bối cảnh mới cho cạnh tranh hàng hóa Việt Nam
_28/7/1995 Tham gia vào Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và từng bước tiến nhanh, hội nhập vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nhiều tổ chức khác sau đó là chính thức gia nhập WTO ngày 11/1/2007 m ở ra 1 n ền kinh t ế m ới kh ởi s ắc cho vi ệt nam
2.1.3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
_Cơ hội : khi mở cửa, cơ hội ùa vào, thì cái được lớn nhất là mở ra toàn cục khi vào WTO nền kinh tế đã bộc lộ nhiều yếu kém tiềm ẩn lâu nay nhưng chưa được xem là cấp bách. Sức ép buộc chúng ta phải giải quyết triệt để hơn. Không có thách thức nào đơn giản. Thách thức cũng là một cơ hội. Đối diện với thách thức, chúng ta phải đi tìm giải pháp, và đây là cơ hội cho phát triển. đóng góp những tiến bộ trong phát triển kinh tế của Việt Nam hiệu ứng WTO với ngành bán lẻ chưa nhiều nhưng chỉ một thời gian ngắn nữa khi các tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam theo đúng lộ trình mở cửa thị trường bán lẻ mà chúng ta cam kết sẽ gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong nước và muốn cạnh tranh, họ chỉ có cách thay đổi toàn diện và triệt để. Như vậy, tưởng là WTO tác động tiêu cực nhưng thực chất nó lại là sức ép tạo ra động lực mạnh mẽ để doanh nghiệp Việt Nam thay đổi một cách toàn diện. Xuất khẩu đã tăng khá cao, lên đến 23,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng tới 32,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nếu không kể dầu thô bị giảm (17,6%) thì tăng tới 41,4%(2007) tốc độ tăng của nhập khẩu cao gấp đôi so với của xuất khẩu (45,8%),Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng rất cao (lên đến 24,1%),
-thách thức : Nếu như năm 2007, năm đầu tiên VN vào WTO với tinh thần đầy phấn khởi thì bước sang năm 2008 các nhà điều hành vĩ mô lại rơi vào tình trạng phải đắn đo về chính sách. Kinh tế VN bắt đầu chịu những “cú sốc” khá nặng. Việc biến động của giá dầu và khủng hoảng tài chính thế giới đã tác động trực tiếp đến VN. Hệ quả là lạm phát tăng cao, cán cân thương mại bị thâm hụt nghiêm trọng, tăng trưởng về giá đã chiếm đến 20%,lạm phát cao ở Việt Nam chủ yếu do lượng tiền lưu thông lớn, mức tín dụng cũng tăng cao (35%)
2.1.3.2 Phát triển Kinh tế tri thức
Có thể nói tri thức ngự trị ở hầu hết tất cả các lĩnh vực của sản xuất và đời sống.Tri thức ngày nay đã trở thành nguồn lực chủ yếu của sản xuất hiện đại, thí dụ các bộ phần mềm dùng trong các dây chuyền sản xuất tự động hóa toàn phần, trong mọi hoạt động qua mạng của ngân hàng, của thương mại điện tử, của thị trường chứng khoán, các hiểu biết về gien dùng trong sản xuất dược phẩm, trong chọn giống, v.v. Phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội. Một trong những đặc điểm nổi bậc của thế giới hiện nay đó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đã tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hoá có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chiến luợc phát triển kinh tế tri thức theo những cách thức riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. Các nước phát triển tập hợp thu hút lao động trí tuệ, thành tựu khoa học công nghệ ở nhiều nước, nghiên cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng mới, vật liệu mới, hoá sinh học, khám phá vũ trụ… để phát triển nền kinh tế. Các nước đang phát triển ( Singapore, Thái lan…) chọn hướng đi tắt, tạo động lực phát triển nhanh nhằm rút ngắn khoảng cách đối với các nước phát triển.
.
Xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế nước ta, Đảng ta đề ra chiến lược phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta chỉ rõ: “phát triển kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nứoc ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vùa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
4 giải pháp về phát triển kinh tế tri thức
-thứ nhất, phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới, phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, và phải thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.
-Thứ hai, chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Trong một thời gian ngắn phấn đấu để phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ cập trung học phổ thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng đồng bằng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh gia.
-Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho sự phát triển nước ta, từng bước sáng tạo những công nghệ mới đặc thù của nước ta, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam.
-Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin. Trước năm 2010 trình độ công nghệ thông tin của Việt Nam phải đạt mức tiên tiến trong khu vực.
2.2 Định hướng và giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
2.2.1 Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
2.2.1.1 Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa giá trị sử dụng của hàng hóa
Nâng cao chất lượng giá trị sử dụng hàng hoá là nâng cao phẩm chất của sản phầm hàng hoá làm ra như thế hàng hoá mới có cơ hội tăng giá và sức cạnh tranh trên thị trường.Thị trường ngày nay vô cùng nhiều các loại hàng hoá dịch vụ và chính vì sự đa dạng đó nếu hàng hoá của nước ta không cải thiện về chất lượng thì không thể cạnh tranh được so với các nước phát triển khác.Bên cạnh đó việc đa dạng hoá gía trị sử dụng hàng hoá cũng là một giả pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh cho hàng hoá Việt Nam.Với nhu cầu ngày càng nâng cao của con người thì việc sử dụng hàng hoá nhiều là điều tất yếu, nếu hàng hoá được đa dạng về giá trị sử dụng thì hàng hoá đó chính là sự lựa chọn của hầu hết con người.Nắm bắt được nhu cầu của con người cùng khoa học kĩ thuật phát triển thì việc đa dạng hoá giá trị sử dụng hàng hoá là việc không khó nhất là với nền kinh tế nước ta hiện nay.
2.2.1.2 Hạ thấp giá trị của hàng hóa
Với quy luật của cung cầu : khi giá hàng hoá dịch vụ giảm thì lượng cầu tăng. Áp dụng quy luật ấy, để tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của Việt Nam thì việc hạ thấp giá của hàng hoá là mộ biện pháp tốt.Khi ta tìm cách giảm chi phí làm ra sản phẩm (giảm lao động của người sản xuất) cũng là cách giảm giá sản phẩm đó.Có rất nhiều cách để hạ thấp giá trị của hàng hoá như sử dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, khai thác nguồn nguyên liệu đầu vào giá rẻ,vân dụng chính sách phương hướng hợp lí với thị trường….Khi doanh nghiệp có thể tạo ra hàng hoá chất lượng mà giá cả phù hợp đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng thì tất yếu năng lực cạnh tranh sẽ nâng cao đáng kể.
2.2.2 Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
2.2.2.1 Nâng cao trình độ lành nghề của người lao động Việt Nam
Trong các nước ASEAN, Việt Nam đang dẫn đầu về tình trạng thiếu đội ngũ quản lý lao động và lao động cao cấp. Đây là một thực trạng đáng báo động và cần sớm có những giải pháp để tháo gỡ. Việt Nam đã đón nhận luồng đầu tư mới tăng mạnh nhưng đội ngũ cán bộ có đủ kinh nghiệm lại chưa phát triển tương xứng. Theo điều tra thị trường lao động của Tổng cục dạy nghề, trong các DN được điều tra, số lao động được gọi là có trình độ cao và lao động lành nghề chỉ chiếm khoảng 23% Để nâng cao trình độ lành nghề của người lao động Vịêt Nam thì chính sách của Đảng và Nhà nước rất cần thiết và có vai trò quan trọng.Nhà nước ta cần có những biện pháp thiết thực để nâng cao trình độ cho người lao động như
-Phát triển hệ thống cơ sở đào tạo nghề theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa bao gồm (cơ sở đào tạo nghề công lập, ngoài công lập và cơ sở đào tạo nghề thuộc các DN); Tập trung đầu tư xây dựng, hiện đại hóa một số trường dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực
-Khuyến khích phát triển cơ sở đào tạo nghề ngoài công lập, tại các DN và cở sở đào tạo nghề có vốn đầu tư nước ngoài… Đa dạng hóa cấp độ đào tạo theo nhu cầu sử dụng của DN theo 3 trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Đây là cơ sở để đào tạo ra những lao động có trình độ cao, lao động lành nghề đáp ứng các nhu cầu của các DN và của các ngành kinh tế mũi nhọn.
-mở rộng quy mô và loại hình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động và nguyện vọng học tập suốt đời của người lao động; đồng thời với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề để cung cấp lực lượng lao động trình độ cao, lao động lành nghề, cần chú trọng đào tạo lao động lành nghề ở một số ngành mà các DNVVN có nhu cầu cao là tài chính, kế toán; công nghệ thông tin, quản lý nhân lực… Gắn đào tạo nghề với nhu cầu sử dụng và với việc làm của các DNVVN
-Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa DNVVN và cơ sở dạy nghề trong từng địa bàn, từng khu vực, thông qua các hợp đồng cung ứng lao động, kế hoạch học tập tại trường và thực tập tại các DNVVN… Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý nhằm tạo ra bước đột phá trong lính vực đào tạo nghề, đáp ứng được sự phát triển của các DNVVN, đồng thời thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động để thường xuyên nắm bắt nhu cầu lao động, trong đó có lao động trình độ cao, lao động lành nghề theo từng nghề, từng nhóm cụ thể của các DNVVN để kịp thời có kế hoạch đào tạo, cung ứng lao động phù hợp.
2.2.2.2 Tăng năng lực nội sinh về khoa học công nghệ Việt Nam
2.2.2.3 Cải tiến tổ chức và quản lý kinh tế
Theo Thứ trưởng thường trực Bộ Kế hoạch Đầu tư Phan Quang Trung, Thủ tướng đã phê duyệt Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở VN. Theo đó, VN sẽ chuyển nền kinh tế từ tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, chuyển từ kinh tế khai thác sang chế biến, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khan hiếm và hạn chế tiêu dùng...
Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ sẽ cơ cấu lại hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ tiêu dùng theo hướng tiêu thụ ít năng lượng và nguyên nhiên vật liệu đồng thời có ít chất thải. Thuế tiêu dùng và các biện pháp quản lý hành chính sẽ là công cụ chủ yếu để điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý.
Ngoài ra, ngành nông nghiệp sẽ có các chính sách hướng đến phát triển bền vững như khuyến khích đô thị hóa hợp lý, phát triển công nghiệp chế biến, mở rộng sản xuất và thị trường sản phẩm nông nghiệp sạch. Chính phủ sẽ ưu tiên phát triển trước các vùng kinh tế trọng điểm, có khả năng bứt phá lên trước, đồng thời chú ý hỗ trợ các vùng kém phát triển nhằm tạo sự cân đối trong phát triển không gian.
2.2.2.4 Đổi mới và nâng cao hiệu suất của tư liệu lao động, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu
Với vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu suất của tư liệu sản xuất: Tư liệu lao động là những phương tiện vật chất mà con người lao động sử dụng nó để tác động vào đối tượng lao động..TLLĐ nếu được sử dụng đúng mục đích sẽ phát huy được năng suất làm việc, kết hợp với công tác quản lý sử dụng như đầu tư, bảo quản, sửa chữa, kiểm kê, đánh giá… được tiến hành một cách thường xuyên, có hiệu quả thì sẽ góp phần tiết kiệm tư liệu sản xuất, nâng cao cả về số và chất lượng sản phẩm sản xuất và như vậy doanh nghiệp sẽ thực hiên được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình. vấn đề sử dụng đầy đủ, hợp lý sẽ góp phần phát triển sản xuất, thu hồi vốn đầu tư nhanh để tái sản xuất, trang bị thêm và đổi mới không ngừng TLLĐ, là những mục tiêu quan trọng đưa vào sử dụng. Trong thực tế, hiện nay, ở Việt Nam đa số các doanh nghiệp vẫn chưa có những kế hoạch, biện pháp quản lý, sử dụng đầy đủ, đồng bộ và chủ động cho nên TLLĐ sử dụng một cách lãng phí, chưa phát huy được hết hiệu quả kinh tế của chúng và như vậy là lãng phí.Chính vì vậy yêu cầu được đặt ra chính là đổi mới và nâng cao hiệu suất của TLLĐ.Một điều quan trọng của đổi mới TLLĐ là đổi mới công nghệ sản xuất đón đầu khoa học kĩ thuật, đầu tư trang thiết bị mấy móc tiên tiến cho dây chuyền sản xuất chỉ như vậy thì năng suất phẩm chất hàng hoá mới đc nâng cao đồng thời tiết kiệm chi phí làm ra sản phẩm tiét kiệm giá trị hàng hoá như vậy hàng hóa sẽ có cơ hội cạnh tranh trên nhiều thị trường.Cần thường xuyên bảo dưỡng đồng thời nâng cao hiệu suất của tư liệu lao động ví dụ …(tự viết)
Để tạo ra hàng hóa cần có nguyên nhiên vật liệu.Nhiên liệu là những tài nguyên thiên nhiên đã có trong tự nhiên được con người khai thác chế biến thành sản phẩm.Do nó có sẵn trong tự nhiên điều đó có nghĩa nhiên liệu là nguồn tài nguyên có hạn nếu khai thác bừa bãi lãng phí thì trong một thời gian ngắn sẽ khiến nguồn nguyên nhiên liệu cạn kiệt ko đủ cung cấp cho nhu cầu của con người.Cần có văn bản quy định chế độ khai thác hợp lí đi đôi với cải tạo phục hồi những ngành thuộc về khai thác như khai thác than,rừng, khoáng sản, thủy sản,…Ra chủ chương tuyên truyền vận động tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu như tiết kiệm điện nước tận dụng tối đa các nguồn nguyên nhiên liệu.Tiết kiệm được nguyên vật liệu chính là tiết kiệm được chi phí tạo ra sản phẩm tiết kiệm tiền của của doanh nghiệp như vậy doanh nghiệp sẽ càng phát triển mang lại nhiều lợi nhuận phát triển ngày càng rộng từ đó năng lực cạnh tranh của hàng hóa cũng như doanh nghiệp càng được nâng cao ,nên kinh tế phát triển bền vững với môi trường hệ sinh thái.
2.2.2.5 Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
Nước ta là đất nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng do quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá c ùng qu á tr ình phát triển nền kinh tế mà vô h ình chung đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến t ài nguy ê n môi trường nước, đất , rừng, ... để có một nền kinh tế manhj nhưng vững chắc thì ngay t ừ bây giờ đảng nhà nước ta cùng toàn thể nhân dân cần có những biên pháp, hành động cụ thể bảo vệ tài nguyên môi trường khai thác sử dụng hợp lý mang lại lợi ích tối đa nhưng vẫn đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi trường nh ư
-sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, chống thoái hoá đất.tình trạng thoái hoá đất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lý luận hàng hóa của cmác và việc nâng cao năng lực canh tranh của hàng hóa việt nam.doc