Tiểu luận Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

PHỤ LỤC

A. Giới thiệu đề tài

B. Nội dung

I. Cơ sở đề tài

1. Cơ sở lý luận

2. Cơ sở thực tiễn

II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

1. Ưu điểm thành công của vấn đề

2. Hạn chế và thất bại, nguyên nhân của thực trạng

III. Kiến nghị và giải pháp đối với thực trạng

C. Kết luận

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Mac đã nêu một tư tưởng rất quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất trong việc thay đổi các quan hệ xã hội. Mác việt: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất . Do có được những lực lượng sản xuất mới loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cố xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa ,cái cối xay chạy bằng hơn nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Như vậy theo Mác lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội và thay đổi một chế độ xã hội mà về sau Mác gọi là hình thái kinh tế xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Trong các quy luật khách quan cho phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực lượng sản xuất một mặt của phương thức sản xuất là yếu tố bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử nhân loại”. Theo quan điểm của Lê nin thì ông đã quy những quan hệ xã hội về các quan hệ sản xuất “quy những quan hệ sản xuất vào những trình độ của lực lượng sản xuất” từ đó giải thích đưa sự vận động của các hình thái xã hội. Bởi vì, những quan hệ sản xuất bao giớ cũng tồn tại trân một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Hai mặt này thống nhất thành phương thức sản xuất và hợp thành nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế xã hội. Phép biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xét cho cùng là động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội và đưa sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. Những ý kiến của Lê nin về sự phân tích chủ nghĩa tư bản mà Mác đã tiến hành trong bộ tư bản chính sách ý nghĩa đặc biệt đối với việc vạch ra cấu trúc toàn diện của hình thái kinh tế xã hội như là sự thống nhất giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Lê nin cho rằng trong khi phân tích hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa Mác đã tập trung vào quan hệ sản xuất: “Nhưng điều chủ yếu là ở chỗ Mác không thoả mãn với cái sườn đó, không chỉ dừng lại ở cái “lý luận kinh tế” hiểu theo nghĩa thông thường là ở chỗ tuy rằng Mác chỉ dùng độc có những quan hệ sản xuất để giải thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội nhất định. Song ở mọi nơi, mọi lúc, ông đều phân tích những kiến trúc thượng tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy. Bộ “Tư bản”, sở dĩ được hoan ngênh nhiệt liệt chính là vì cuốn sách đó đã vạch ra cho độc giả thấy rằng toàn bộ hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa là một cái gì sinh động với những khía cạnh của đời sống hàng ngày. Với những biểu hiện xã hội cụ thể của sự đối kháng giai cấp vốn có của những quan hệ sản xuất, với cái kiến trúc thượng tầng chính trị tư sản đang bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản đang bảo vệ sự thống nhất của giai cấp tư bản, với những ý niệm tư sản về tự do bình đẳng … với những quan hệ gia đình tư bản”. Mác đã trình bày rất logic ở trong cuốn ‘Góp phần phê phán khoa kinh tế –chính trị ” viết năm 1859 rằng: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không thuỳ thuộc vào ý muốn của họ tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp, với mọi trình độ phát triển nhất định của của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là các cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định hưởng ứng với cơ sở hiện thực đó”. Về sau bằng một công thức ngắn gọn Ănghen đã tóm tắt quan niệm về hình thái kinh tế xã hội như sau: “… trong mỗi thời đại lịch sử phưng thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ thời đại, các cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cất nghĩa được lịch sử của sự phát triển trí tuệ thời đại, cái cơ sở và chỉ có xuất phát từ trí tuệ thời đại, các cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử”. Lịch sử chứng tỏ rằng, các hình thái xã hội ngay cùng một kiểu cũng không khi nào được thể hiện dưới hình thức như sau. Mác viết : “cùng một cơ sở kinh tế đó xét về mặt những điều kiện chủ yếu của nó-nhưng do có những tình hình khác nhau về mặt kinh nghiệm, do những điều kiện tự nhiên, do những quan hệ chủng tộc do những ảnh hưởng lịch sử từ ngoài vào,.. nên lại có biểu hiện ra dưới không biết bao nhiêu là biến thể và màu sắc mà người ta chỉ có thể hiểu được nhờ phân tích những tình hình nhất định do kinh nghiệm đem lại…”. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội nhấn mạnh vai trò quyết định – xét đến cung – cầu của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử. Ăng ghen viết: “Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả Mác lẫn tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế… Do đó nếu có ai xuyên tạc câu đó khiến cho nó có nghĩa là nhân tố kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất thì như vậy là họ đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, triều tượng về nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở, nhưng mọi yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc… cũng đều ảnh hưởng đến quá trình của những cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trường hợp lại chiếm ưu thết trong việc quyết định hình thức của những cuộc đấu tranh đó”. Căn cứ vào những tư tưởng của các nhà kinh điển và thực tiễn, chúng ta có thể xác định hình thái kinh tế xã hội luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội muốn đẩy mạnh nền kinh tế của một xã hội ta cần tác động thay đổi hình thái kinh tế xã hội. Muốn thay đổi hình thái KTXH chúng ta cần hiểu rõ học thuyết Mác về hình thái KTXH nó là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Mác cho rằng hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan, Mác đã làm nổi bật lại những quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ hình thái mà không thông qua ý thức của con người. Đó là những quan hệ sản xuất và Mác coi là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác. Bằng cách này, chủ nghĩa duy vật cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan, từ những phức tạp trong hiện tượng xã hội. Như vậy học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội là cơ sở phương pháp luận của sự phân tích khoa học về xã hội là hòn đá tảng của khoa học xã hội. Ngày nay thực tiễn lịch sử và kiến thức về lịch sử của nhân loại có nhiều bổ sung và phát triển mới, nhưng những cơ sở khoa học mà quan niệm duy vật về lịch sử đa đem đến cho khoa học xã hội thì vẫn giữ nguyên giá trị. Giá trị không thể bác bỏ của học thuyết hình thái kinh tế xã hội chẳng những ở tính khoa học mà còn ở tính cách mạng, học thuyết này chỉ ra những mâu thuẫn bên trong và chính sự vận động của mâu thuẫn này cuối cùng cũng dẫn đến sự chuyển hoá từ một hình thái này sang một hình thái khác, từ một một trật tự quan hệ xã hội này sang một trật tự quan hệ xã hội khác. Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ , lại trong điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước bị sụp đổ, khuynh hướng tuyệt đối hoá cách tiếp cận theo nền văn minh tăng lên nhằm hạ thấp, thậm chí loại bỏ cách tiếp cận hình thức KTXH. Họ cho rằng lý luận về hình thái đang mất đi cả ý nghĩa nhận thức /////////////. Vì thế nói không thể áp dujg vào bức tranh thế giới hiện đại. Đó là một kết luận không có cơ sở và bản thân phương pháp tiếp cận hình thái của Mác không hề giới hạn mình chỉ trong phạm vi một nền văn minh nhất định và nó luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của lực lượng sản xuất và công nghệ, tức là vai trò của những trình độ văn minh vật chất. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội luôn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội. Trong quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế –xã hội nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Qua những luận điểm những quan điểm trên của Mác và Ăng ghen chúng ta thấy, đất nước ta đã vận dụng những lý luận trên, Đảng và Bác Hồ đã vạch ra con đường tiến lên cho đất nước Việt Nam. Đất nước ta muốn đi lên, muốn phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế xã hội thì cần phải chọn lựa phát huy truyền thống dân tộc, phát triển kinh tế xã hội, tiếp cận nền văn minh thế giới, phải đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh trong những năm tiếp theo, phấn đấu hoàn thành suất sắc mục tiêu và phương hướng mà Đảng và nhà nước đã nêu ra trong các lần Đai hội. 2. Cơ sở thực tiễn Những lập luận về con đường phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội đã trình bày ở trên là cơ sở lý luận chung để nhận thức con đường phát triển ở nước ta. Chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng, con đường quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta cả trong điều kiện này – vẫn là tất yếu và có khả năng thực hiện. Sự lãnh đạo của Đảng ta, một Đảng giàu tinh thần cách mạnh, sáng tạo, gắn bó với quần chúng là nhân tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong những thời điểm phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng ta vẫn vừng vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới, vượt qua những hiểm nghèo đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách vững vàng. Chúng ta đang sống thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng này vừa tạo ra thời cơ thuận lợi cho phép một quốc gia đã chứng minh. Đó là công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nói đến tốc độ của quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nói đến cuộc chạy đua về mặt thời gian và thời đại ngày nay. Là thời thời đại quá độ của chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc sớm hat muộn đều tiến lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế là đã bao hàm một sự cam kết về cấp độ, đảm bảo nhanh hơn mọi quá trình tự phát và do đó lực lượng sản xuất phải được phát triển mạnh hơn. Nếu chúng ta tận dụng được thời cơ và vượt qua được thách thức thì có thể tạo ra được những cơ sở đó thực hiện sự phát triển rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội. Trước mắt chúng ta phải định hướng và vạch ra một chương trình cụ thể trên một lĩnh vực, định hướng lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài nên Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trước mặt là đổi mới nền kinh tế, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí nhà nước. Thực hiện quá trình đổi mới là cả một quá trình lâu dài nên Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nông thôn là một phương hướng cấp bách. Nghị quyết Đại hội VIII ghi rõ : “Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh. Xã hội công bằng văn minh… từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Để đẩy nhanh sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải nắm vững tình hình kinh tế thế giới, vận dụng thành quả của các nước đã phát triển, phải mở cửa giao lưu với các nước bên ngoài, chớp lấy thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, đề phòng cảnh giác cao độ với các nước tư bản không để cho họ lợi dụng tiềm năng kinh tế của nước ta. Chúng ta đã đạt được một số thành quả bước đầu, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, công cuộc đổi mới của chúng ta còn không ít khuyết điểm và những mặt yếu kém trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng: tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quá thấp. Nước ta thiếu huy động vốn trong dân. Trong phát triển kinh tế nhiều thành phần, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa lúng túng vừa có tình trạng buông lỏng chưa phát huy tốt nhiều tiềm năng. Giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất nhằm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế. Chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động. Cơ chế thị trường còn sơ khai, vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn yếu. Hệ thống quản lí kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp cơ chế chính sách chưa đồng bộ nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy và hướng dẫn nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nâng cao hiệu quả và đúng hướng. Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực tệ nạn tham nhũng buôn lậu lãng phí của công chưa được ngăn chặn, thậm chí tiếp tục tăng. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong nhân dân ngày càng mở rộng. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta cần phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế trí thức, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước không những chậm được thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng… hiện nay GDP bình quân đầu người nước ta bằng 1/12 mức bình quân chung. Trong các nước thuộc Đông Nam á nước ta có tốc độ tăng GDP còn kém so với một số nước như Singapo, Malayxia Philipin, Thái Lan, Việt Nam chỉ đứng thứ 5. Trong điều kiện đó, việc tìm ra con đường hợp lý đưa ra những giải pháp thích ứng để đạt mục tiêu đã xác định có ý nghĩa và càng quan trọng. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội IX xác định con đường công nghiệp hoá ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với những nước đi trước. Vừa có những bước đi tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Đại hội III của Đảng đã xác định “Sự kết hợp giữa tuần tự và nhảy vọt” . Sự kết hợp tuần tự và nhảy vọt trong điều kiện hiện nay vẫn phải là kết hợp công nghệ nhiều tầng, một mặt sử dụng cải tiến và nâng dần công nghệ hiện đại theo trình độ thế giới . Khi khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp những yếu tố của kinh tế trí thức đã xuất hiện sự phát triển các hoạt động kinh tế chủ yếu dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ chúng ta cần đổi mới kinh tế làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển trải qua hai cuộc chiến tranh lớn và thời kỳ bao cấp kéo dài lực lượng sản xuất nước ta còn thấp, kém năng suất lao động thấp, lao động thủ công vẫn chiếm đa số 80% dân làm nông nghiệp do đó cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, cần nâng cao trình độ dân trí tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng được tốt hơn. Trong sự nghiệp phát triển đó nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã hội bằng hoạt động lao động sản xuất con người đã cải tạo tự nhiên để thỏa mãn những yêu cầu của mình. Đồng thời cải tạo cả bản thân con người. Trong hoạt động lao động trinh phục tự nhiên và trên cơ sở đó sáng tạo nên những điều kiện đảm bảo cho sự sinh tồn của bản thân mình sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Con người chinh phục cải tiến tự nhiên không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là những thành viên của cộng đồng xã hội. Phát triển con người về thực chất là phát triển nhân cách con người. Đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là đầu tư theo chiều sâu đáp ứng đòi hỏi của phát triển và đón trước yêu cầu của phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những nỗ lực bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực và khổ lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị – xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng cần phải bồi dưỡng nguồn nhân lực để phát huy năng lực nội sinh của nhân tố con người, chăm lo thường xuyên tới việc giải quyết việc làm cho người lao động nâng cao trình độ dân trí đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày một cao của nhân dân thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Theo chủ nghĩa Mác Lênin lấy sự phát triển con người làm thước đo tiến trình phát triển và tiến bộ của xã hội loài người, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hàng các nước trên thế giới, đánh giá tiến bộ kinh tế xã hội của một nước dựa vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, dựa trên cơ sở yếu tố mang tính nhân văn như mức thu nhập, trình độ học vấn… Đảng ta chủ trương gắn kết mọi kế hoạch xây dựng và phát triển đất nước với kế hoạch đầu tư cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện. Từ hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương khoá VIII Đảng đã đề ta: ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ việc tất yếu phải giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy kinh tế bằng phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Ngày nay lực lượng đã mang tính quốc tế hóa vì vậy đòi hỏi chúng ta phải biết tận dụng sáng tạo quy luật sự phù hợp của sản xuất vơi tính chất và trình độ lực lượng sản xuất, chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Chúng ta phải tập trung vào nhân lực là nhân tố cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân lành nghề. Cán bộ quản lí sản xuất kinh doanh trong đó lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đóng vai trò là yếu tố chủ thể của lực lượng sản xuất xã hội. Trong sk hiện nay để phát huy những khả năng tiềm tàng về vật tư, lao động tất yếu, thực hiện nhiều ngành nghề do đó đòi hỏi. Vốn là khâu quan trọng. Đi đôi với việc phát triển về vốn chúng ta phải xây dựng một cơ sở hạ tâng thật tốt. Đối với nước ta là một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nay phải xây dựng cơ sở hạ tầng để phù hợp với kiến trúc thượng tầng. Cơ sở vật chất của ngành giao thông vận tải là một trong những khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng nó là cửa mở đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội. Vì vậy sự yếu kém của kết cấu hạ tầng là nguyên nhân hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội vừa là hậu quả của một nền công nghiệp chưa phát triển bên cạnh đó việc mở rộng giao lưu quốc tế tiếp cận và vận dụng những giá trị mới của văn minh nhân loại đây là một vấn đề rất quan trọng. Nền kinh tế nước ta thị trường chủ yếu trước đây là các nước đông Âu là Liên Xô cũ nhưng thị trường các nước XHCN tan rã thì chúng ta đã mất đi một thị trường lớn đó là một thiệt thòi lớn đối với chúng ta nhất là trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế hiện nay. Vì đòi hỏi nhà nước phải có chính sách yêu tiên cho xuất khẩu và chế độ yêu đãi đối với hàng xuất khẩu. Tạo môi trường tự do sáng tạo cho mọi sáng kiến cá nhân là viếc nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, biết vận dụng, tận dụng nguồn vốn một cách hợp lý, có hiệu quả, thu hút thị trường các nước hội nhập. Trong sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì chúng ta càng đề phòng các tệ nạn, các hoạt động phản động phá hoại nền kinh tế nước ta, các tệ nạn tham nhũng quan liêu làm ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm suy thoái kinh tế trong thời kỳ phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ii. thực trạng của vấn đề nghiên cứu Ưu điểm –thành công Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô, thì Đảng ta vẫn quyết tâm giữ vững và tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng Đảng đã lãnh đạo nhân dân luôn hướng theo chủ nghĩa Mác Lênin khắc phúc khó khăn dần đưa đất nước từng bước tiến lên lên bằng cách, đề ra các mục tiêu phương hướng cho hoạt động kinh tế, nhằm phát triển xã hội. Từ những năm 1960 chủ trương công nghiệp hoá của Đảng đã được định hướng thực hiện qua các kế hoạch dài hạn 5 năm. Song do điều kiện nghèo nàn lạc hậu do chiến tranh, giữa nước ta với thế giới. Đến năm 1986 thì mục tiêu phương hướng và sự chủ đạo của Đảng và phát triển công nghiệp hoá đã đánh dấu một mốc quan trọng chuyển sang thời kỳ đổi mới. Những thành tựu đã đạt được của đại hội VI như: ổn định mọi mặt kinh tế xã hội , xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá. Đường lối đổi mới của Đảng đề ra từ Đại hội VI đã thực hiện và đi vào cuộc sống của nhân dân được ổn định, sản lượng lương thực đã đáp ứng nhu cầu cả nước, hàng hoá trên thị trường đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh. Trên cơ sở phát huy những thành quả đã đạt được đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng đã vạch ra phương hướng và mục tiêu. “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát”. ổn định phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bước đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta phải thoát khỏi và chấm dứt tính trạng suy thoái và phải trên đà phát triển toàn diện. Sau 10 năm đổi mới (1986-1996) đất nước ta đã trải qua không ít những khó khăn và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt. Trong phát triển kinh tế, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo theo cơ chế thị trường, đã hình thành và bước đầu có sự phát triển cụ thể sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng đáng kể từ 13,3 triệu tấn năm 1970-1980 đã tăng lên 26,3 triệu tấn năm 1995. Trong 3 năm 1991-1995 nhịp độ tăng trưởng của sản phẩm quốc nội là 8,2%, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9% vốn đầu tư cơ bản năm 1990 là 15,8% đến năm 1993 là 27,4%. Nguồn vốn công nghệ và kinh nghiệm quản lí tiếp nhận từ nước ngoài tăng nhanh: viện trợ ODA năm 1991 là 180 triệu UDS (năm 1996 do Mỹ có lệnh bỏ lệnh cấu vận đối với Việt Nam. Tổng viện trợ ODA từ 1991-1995 vốn cam kết là 9,058 tỷ USD, vốn đầu tư nước ngoài FDI năm 1991 là 0,62 tỷ USD… Về mặt xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện, đảm bảo các mặt về y tế giáo dục, bảo hiểm cho nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người đã được nâng lên xấp xỷ 200 USD/ năm. Các chỉ số pht con người là 0.539 chỉ số tuổi thọ là 0.67, chỉ số kiến thức là 0,78 trình độ dân trí và mức độ hưởng thụ văn hoá được nâng cao, người lao động phát huy hết khả năng tích cực của mình. Chúng ta giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an nninh. Về mặt chính trị đã thực hiện có kết quả một số đổi mới như ban hành hiến pháp năm 1992, Bộ luật đầu tư và các chỉ thị liên quan tạo nên môi trường lành mạnh và tương đối thoải mái đối với nền kinh tế nhằm thu hút sự đầu tư trong và ngoài nước. Chúng ta vẫn đang tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước nâng cao chất lượng quản lí của đội ngũ cán bộ. Về quan hệ đối ngoại chúng ta đã phá thế bị bao vây, cấm vận tham gia vào cộng đồng quốc tế với chủ trương muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới không kể sắc tộc tôn giáo thể chế chính trị trên nguyên tắc bình đẳng không xâm phạm chủ quyền lẫn nhau đôi bên cùng có lợi chúng ta đã lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới theo thống kê thì chỉ số ghi nhận quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam là 55,1% thuộc vào diện trung bình trên thế giới . Cho đến nay khi thế kỷ 20 sắp đi qua và đón chào thế kỷ 21 Việt Nam đã có những bước nhảy vọt về kinh tế. Kinh tế Việt Nam được dự đoán một tiềm năng dồi dào, là một nước đang phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đã có nhiều tiền đề thực hiện. Trải qua 15 năm đối mới chúng ta đã có nền tảng vững chắc để bước vào sự nghiệp hiện đại hóa đất nước, phát triển theo hướng công nghiệp . Có rất nhiều thành tựu trong mọi lĩnh vực xã hội như về mặt giáo dục chúng ta đã phổ cập giáo dục tiểu học nâng cao trình độ dân trí tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế đào tạo nhân tài đất nước nâng cao tay nghề cho công nhân áp dụng những thành tựu khoa học trên thế giới và trong đời sống vào hoạt động sản xuất. Xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc như điện, đường, trường, trạm, tới tận những vùng sâu, vùng xa để phục vụ học hành chăm lo đến sức khoẻ đời sống nhân dân, thuận ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29925.doc
Tài liệu liên quan