Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức là làm tăng tích luỹ. Ảnh hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công nhân, tăng thêm máy móc, theíet bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí nguyên liệu).
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý luận tích luỹ tư bản và vận dụng vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nghiên cứu môn kinh tế chính trị học nói giúp cho ta khả năng tư duy, giúp cho ta nhận biết được bản chất của các xã hội, của các thời kỳ và các quá trình phát triển kinh tế. Ngoài ra nghiên cứu môn kinh tế chính trị học nó giúp cho chúng ta kết hợp được hài hoà giữa các yếu tố lợi ích kinh tế và giải quyết tốt được những vấn đề xã hội.
Trong những nước phát triển, bộ môn kinh tế chính trị học rất được coi trọng và được áp dụng, phổ biến một cách rộng rãi. Để từ đó tuỳ thuộc vào mỗi nước, mỗi quốc gia sẽ đề ra cho mình một sách lược vàe những chiến lược khác nhau để phát triển nền kinh tế.
Còn ở Việt Nam do mới giành được độc lập, mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Vì vậy, nền kinh tế hđ còn kém hiệu quả và không thực sự năng động. Chính vì lý do đó mà em đã tìm hiểu, đi sâu và chọn đề tài nghiên cứu là “Lý luận tích luỹ tư bản và vận dụng vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Nội dung của đề tài này nhằm giới thiệu bản chất tư bản là gì, thực chất và động cơ tích luỹ của tư bản, những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lỹ tư bản, quy luật và xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản là gì, vận dụng những yếu tố đó trong nền kinh tế nước ta như thế nào.
Em rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để hoàn thiện tốt đề tài này. Em xin cảm ơn chân thành sự chỉ bảo tận tình của cô giáo và thư viện trường Đại học Quản lý và Kinh doanh đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
Nội dung
I. Thực Chất Và Động Cơ Của Tích Luỹ Tư Bản
1. Trước hết ta phải hiểu khái niệm tư bản là gì?
Tư bản là giá trị mà có bản năng tự tăng lên mà người chủ của nó không phải tham gia lao động.
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghiã tư bản. Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lập lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước , với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản , hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản.
Như vậy , thưc chất tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yêú tố vật chất của tư bản mới.
Có thể minh hoạ tích lỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ sau: Năm thứ nhất: 80c + 20v + 20m. Gỉa định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân , mà được phân thành 10m1+10m2(trong đó 10m2 giành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản, còn 10m1 dùng để tích luỹ). Phần giá trị thặng dư 10m1 dùng để tích luy được phân thành 8c1+2v1. Khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c+22v+22m(nếu m vẫn như cũ ). Như vậy vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến tăng đều lên tương ứng.
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rủta những kết luận vạch rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nhgiã:
Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mac nói rằng tue bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.Trong quá trình sản xuất, lãi cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ trở thành phương tiện mạnh mẽ để bóc lột chính người công nhân.
Hai là, quá trình tích luỹ dã làm cho quyền sở hữu trong nền sản suất hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa.Sư trao đổi giữa họ với nhau theo nguyên tắc ngang gigá về cơ bản không dẫn tới việc người này chiếm đoạt lao động không công của người kia.Trái lại, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của người công nhân, mà còn là người chủ sở hữu hợp pháp lao động không công đó.Như vậy đã có sự thay đổi căn bản trong quan hệ see hữu.Nhưng sự thay đổi đó không vi phạm quy luật giá trị.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của gía trị. Dể thực hiện mục đích đó ,các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng ,xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột của người công nhân.
2. Những nhân tố quyết định quy mô tích lỹ tư bản.
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lỹ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.
Nếu tỷ lệ phân chia nó đã có sẵn, thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là:
Một là, mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mac giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích lỹ tư bản.
Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức là làm tăng tích luỹ. ảnh hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công nhân, tăng thêm máy móc, theíet bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí nguyên liệu).
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội.
Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thì khối lượng sản phẩm, biểu hiện một giá trị nhất định và do đó biểu hiện một đại lượng giá trị thặng dư nhất định cũng tăng lên. Với một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi, hay thậm chí với một tỷ suất giá trị thặng dư đang giảm xuống, thì khối lượng sản phẩm thặng dư vẫn tăng lên, miễn là tỷ suất giá trị thặng dưe giảm xuống chậm hơn mức tăng của sức sản xuất của lao động. Vì vậy, với một tỷ lệ phân chia sản phẩm thặng dư thu nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể tăng lên mà không cần giảm quỹ tích luỹ. Nhưng như ta đã thấy, năng suất lao động mà tăng lên thì công nhân cũng trở nên rẻ đi, và do đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng tăng lên, ngay cả khi tiền công thực tế được nâng cao. Tiền công này không bao giờ tăng lên theo cùng một tỷ lệ với năng suất lao động. Cũng vẫn một giá trị tư bản khả biến ấy lại vận dụng được nhiều sức lao động hơn, và do đó nhiều lao động hơn. Cũng vẫn một giá trị tư bản bất biến ấy lại biểu hiện thành một lượng tư liệu sản xuất nhiều hơn, tức là nhiều tư liệu lao động, do đó cung cấp nhiều yếu tố tạo ra sản phẩm, cũng như nhiều yếu tố tạo ra giá trị hơn, hay nhiều yếu tố hấp thụ lao động hơn. Vì vậy, khi giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi thậm chí giảm xuống, tích luỹ cũng vẫn được đẩy nhanh. Chẳng những quy mô tái sản xuất được mở rộng về mặt vật thể, mà sản xuất giá trị thặng dư cũng tăng lên nhanh hơn giá trị của tư bản phụ thêm.
Sự phát triển sức sản xuất của lao động cũng ảnh hưởng đến số tư bản ban đầu hay số tư bản đang nằm trong quá trình sản xuất. Một phần của tư bản bất biến đang hđ gồm những tư liệu lao động như máy móc.vv… là những thứ chỉ có thể tiêu dùng hết, và do đó được tái sản xuất hay thay thế bằng những cái mới cùng loại, sau những thời kỳ dài hơn. Nhưng mỗi năm, một phần những tư liệu lao động đó lại chết đi, tức là đạt tới mục đích cuối cùng của chức năng sản xuất của nó. Tái sản xuất cũng gắn liền với quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học và kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến cái phần của tư bản ban đầu đã bước vào giai đoạn đổi mới. Dưới hình thức mới của nó, tư bản chiếm không sự tiến bộ xã hội đã diễn ra đằng sau lưng hình thức cũ của nó. Trong chừng mực cạnh tranh làm cho sự mất giá, vì nhà tư bản tìm cách bù lại thiết hại cho mình bằng cách tăng cường bóc lột họ.
Ba là, sự chênh lệch tư bản tiêu dùng và tư bản sử dụng.
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác: khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, các thứ khí tài cũng tang lên; nhưng những thứ đó, trong một thời kỳ dài hay ngắn, trong những quá trình sản xuất thường xuyên lặp đi lặp lại, đều hđ với toàn bộ quy mô của chúng hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhất định, nhưng lại chỉ hao mòn dần dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm mà thôi. Những dự phục vụ không công đó của lao động trong quá khứ, được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ. Như vậy là ý nghĩa ngày càng không ngừng tăng lên của lao động quá khứ hiện đang tham gia vào quá trình lao động dới hình thức tư liệu lao động thì không được quy cho bản thân người công nhân (tư liệu lao động chính là lao động quá khứ và không được trả công của người đó), mà lại quy cho một hình thái khác của lao động đó, hình thái đã tách ra khỏi người công nhân, tức là hình thái tư bản.
Bốn là, quy mô tư bản ứng trước.
Với một mức độ bóc lột sức lao động nhất định, thì khối lượng giá trị thặng dư do con số công nhân bị bóc lột cùng một lúc quyết định, mà số lượng công nhân này thì lại tương xứng với đại lượng xủa tư bản, tuy là với một tỷ lệ biến đổi. Nhà tư bản có thể nhờ đó mà sống xa hoa hơn và đồng thời lại hy sinh được nhiều hơn. Và cuối cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng trước, thì tất cả động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác động mạnh mẽ hơn.
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phân tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ càng lớn.
Kết luận
Hoạt động tích tụ và tập trung vốn đầu tư trong nước là lĩnh vực rộng lớn và còn tương đối mới ở Việt Nam. Vì vậy quy mô tích tụ và tập trung vốn ở nước ta mới chỉ ở quy mô vừa và nhỏ. Nhưng không vì thế mà nó giảm tính cấp thiết của mình. Trong quá trình phát triển nền kinh tế, thì tích tụ và tập trung vốn là một yếu tố hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhờ có sự nhận thức đúng đắn về quá trình tích tụ và tập trung vốn, và thông qua đó nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển. Nhờ đó có tích tụ và tập trung vốn tốt mà ngành công nghiệp không ngừng được đổi mới công nghệ, ngành nông nghiệp không ngừng được ứng dụng những thành tựu khoa học vào trong sản xuất, ngành ngân hàng làm ăn có hiệu quả. Thị trường chứng khoán là nơi mà các doanh nghiệp cần vốn để phát triển, thì sẽ có vốn để phát triển mà không cần thông qua một Công ty chung gian nào.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28043.doc