Tiểu luận Lý luận về quy luật giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn trong quản lý các doanh nghiệp nước ta hiện nay

 

MỤC LỤC

I. Phần mở bài 1

II. Phần nội dung 2

A. Lý luận về quy luật giá trị thặng dư 2

1. Khái quát chung 2

2. Mặt chất của giá trị thặng dư 2

2.1 Điều kiện ra đời của giá trị thặng dư 2

2.2. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư 6

2.3. Kết luận 10

3. Mặt lượng của giá trị thặng dư 10

3.1. Tỷ suất giá trị thặng dư 10

3.2 Khối lượng giá trị thặng dư 11

3.3 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư 12

3.4 Kết luận 15

4. Kết luận chung về giá trị thặng dư 15

B. Ý nghĩa thực tiễn trong quản lý các doanh nghiệp nước ta hiện nay 17

1 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 17

2. Lý do của việc tồn tại quy luật giá trị thặng dư ở nước ta 18

3. Tác dụng của quy luật trong quản lý các doanh nghiệp 19

4. Các biện pháp có lợi nhuận ở Việt Nam 29

III. Kết luận 33

Tài liệu tham khảo

 

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18322 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận về quy luật giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn trong quản lý các doanh nghiệp nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấy mà chúng ta phải nghiên cứu một khái niệm thứ hai đó là khối lượng giá trị thặng dư. 3.2. Khối lượng giá trị thặng dư: Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến V đã được sử dụng, ký hiệu là M. Công thức tính: M=m'*V Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột. Nó cho thấy số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định. Trong công thức tính khối lượng giá trị thặng dư thì m/v phản ánh quy mô bóc lột theo chiều sâu, v là lượng xác định vì tiền công của công nhân là không đổi tính trong khoảng thời gian ngắn và các điều kiện nhất định. Còn V là tổng tư bản khả biến, đại biểu cho tổng số công nhân được sử dụng. Nó phản ánh quy mô bóc lột theo chiều rộng. Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào tỉ suất giá trị thặng dư m' và tổng tư bản khả biến V hay khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào thời gian và cường độ lao động của mỗi công nhân, phụ thuộc vào số lượng công nhân mà nhà tư bản đã sử dụng. Cùng với sự phát triển củachủ nghĩa tư bản, khối lượng giá trị thặng dư không ngừng được gia tăng. Vì mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận, sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt nên toàn bộ hoạt động của họ đều hướng tới việc tăng cường tạo ra giá trị thặng dư. Các phương pháp được sử dụng là sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp trong đó giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động và điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Phương pháp này được áp dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi kĩ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp. Ví dụ ngày lao động là 10h, 5h là thời gian lao động cần thiết, 5h là thời gian lao động thặng dư. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(5/5)* 100 = 100%. Nhưng giả định ngày lao động kéo dài thêm 2h trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Như vậy thời gian lao động thặng dư là 7h. Tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(7/5)*100 = 240%. Như vậy tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên hay trình độ bóc lột công nhân cũng tăng lên. Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày công lao động. Nhưng điều này lại bị hạn chế bởi thể chất và tinh thần của người lao động. Trước đây ngày lao động của công nhân kéo dài 16h, do công cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân toàn thế giới ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa chế độ ngày làm 8h đã được thực hiện. Tăng cường độ lao động cũng là một cách tăng giá trị thặng dư giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày và được áp dụng thay thế. Phương pháp thứ hai là sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư. Xuất phát từ việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động, vấp phải sự phản kháng ngày càng mạnh của giai cấp công nhân cộng thêm sự phát triển sản xuất bằng cơ khí, kĩ thuật tăng cao làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng.Nhà tư bản dựa vào tăng năng suất lao động để tăng lượng giá trị thặng dư, nâng cao trình độ bóc lột. Ví dụ ngày lao động 8h được chia làm hai phần: 4h lao động cần thiết và 4h lao động thặng dư. Khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(4/4)*100=100%. Giả thiết công nhân chỉ cần lao động 3h để tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của mình. Như vậy ngày lao động được chia thành 3 giờ lao động cần thiết và 5 giờ lao động thặng dư.Tỷ suất giá trị thặng dư là m'=(5/3)*100=166%.Ví dụ trên cho thấy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng lên tức là lượng giá trị thặng dư tăng lên. Để giảm thời gian lao động cần thiết phải giảm giá trị sức lao động bằng cách giảm giá tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt _ tức là phải tăng năng suất lao động xã hội. Phương pháp này được áp dụng khi trình độ kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản đã tương đối phát triển. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động dưới chủ nghĩa tư bản trải qua ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại cơ khí. Nhà tư bản đã sử dụng cả hai phương pháp trên để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Phương pháp thứ ba được sử dụng là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội . Nguyên nhân là do có sự cạnh tranh giũa các nhà tư bản buộc họ phải cố gắng tăng năng suất lao động cá biệt trong xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá ở xí nghiệp của họ so với giá trị xã hội của hàng hoá. Và nhà tư bản chiếm phần chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt chừng nào mà năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa. Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều có cơ sở chung là dựa trên tăng năng suất lao động. Nhưng giá trị thặng dư tương đối dựa trên tăng năng suất lao động xã hội, toàn bộ giai cấp tư sản đều thu được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Quan hệ kinh tế chủ yếu là quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên tăng năng suất lao động cá biệt, chỉ có ở một hay một số nhà tư bản mà thôi chứ không phải là toàn bộ giai cấp tư sản. Sở dĩ chỉ có một số nhà tư bản có giá trị thặng dư siêu ngạch là nhờ vào ưu thế kĩ thuật của riêng nhà tư bản đó. Nó là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối và được thay bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kĩ thuật mới từ trường hợp áp dụng cá biệt trở thành được áp dụng phổ biến. Nó biểu hiện không chỉ quan hệ giữa nhà tư bản với giai cấp công nhân mà còn có cả quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau. Tuy nhiên giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp của cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Nó là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, giảm giá trị hàng hoá. Càng ngày trình độ bóc lột của nhà tư bản càng được nâng cao. Họ sử dụng sao cho có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của quá trình sản xuất mà trước hết là sức lao động để làm tăng giá trị thặng dư, thu được nhiều lợi nhuận. C.Marx đã chỉ rõ mức lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao chính là mục đích trực tiếp, là động lực của nền sản xuất hàng hoá tư bản(mà ngày nay lợi nhuận còn là động lực trong kinh tế thị trường). C.Marx đã trích câu nói của Đun-nhin: lợi nhuận thích đáng thì nhà tư bản trở nên can đảm. Tỷ suất lợi nhuận nếu đạt 10% thì các nhà tư bản đã hăng máu lên; 20% thì nhà tư bản có thể dùng tư bản ở khắp nơi; 50% thì nhà tư bản sẽ táo bạo không biết sợ là gì; 100% thì họ có thể trà đạp lên luật lệ của loài người và 300% thì dù có bị treo cổ cũng không sợ. 3.4. Kết luận mặt lượng của giá trị thặng dư: Như vậy mặt lượng của giá trị thặng dư bao gồm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị đã cho thấy các nhân tố tác động tới giá trị thặng dư và biện pháp mà nhà tư bản sử dụng để tăng lượng giá trị thặng dư. 4. Kết luận chung về giá trị thặng dư: Việc nghiên cứu đầy đủ mặt chất, mặt lượng của giá trị thặng dư đã chỉ rõ quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản vì nó phản ánh bản chất bóc lột của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống các quy luật kinh tế hoạt động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tất cả các quy luật khác như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... đều xoay quanh quy luật trung tâm là quy luật giá trị thặng dư. Nó là cơ sở tồn tại, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho tư bản. Vì mục đích trực tiếp của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất giá trị sử dụng mà là giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. C.Marx đã nói :'' Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thăng dư. Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản bằng tăng số lượng lao động làm thuê và tăng mức bóc lột họ là nội dung của quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quy luật giá trị thặng dư quyết định tới mọi mặt của xã hội tư bản: sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên do là ảnh hưởng hai mặt của quy luật giá trị thặng dư như sau: Tác dụng tích cực của quy luật giá trị thặng dư là thúc đẩy kĩ thuật và phân công lao động xã hội phát triển. Các nhà tư bản luôn luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật, ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật hiện đại nhất làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh chóng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, máy móc hiện đại, công nghệ tiến bộ được sử dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu do tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm vì bị máy móc hiện đại thay thế; đồng thời cũng làm giảm một cách tuyệt đối chi phí lao động quá khứ trong một đơn vị sản phẩm. Nó cũng gây ra sự biến đổi lớn trong cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển: do cơ sở công nghệ mới, sản xuất phát triển theo chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế lao động giản đơn khiến nhân cách sáng tạo của lao động làm thuê được chú trọng. Lao động trí óc, lao động có trình độ kĩ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất giá trị thặng dư. Chính tầng lớp công nhân này đem lại tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên cho các nhà tư bản. Tuy nhiên sản xuất giá trị thặng dư chính là nguyên nhân của mâu thuẫn đối kháng trong xã hội tư bản. Để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản không ngừng tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cưỡng bức kinh tế kỉ luật đói rét dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kĩ thuật đẻ tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài thời gian lao động. Mối quan hệ nhà tư bản_người lao động là mối quan hệ cơ bản, sâu sắc nhất, ảnh hưởng tới mọi quan hệ sản xuất của xã hội. Đó là quan hệ: phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài giá trị sức lao động bị nhà tư bản chiếm không. Giá trị thặng dư này là nguồn gốc làm giàu của giai cấp tư bản, sản xuất giá trị thăng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Do tối đa hoá giá trị thặng dư làm quan hệ này trở nên gay gắt, dẫn đến mâu thuẫn đối kháng. Sự tác động của quy luật giá trị thặng dư làm mâu thuẫn cơ bản tư sản_công nhân và tất cả mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc. Vì vậy, nhà tư bản phải điều chỉnh để thích nghi. Ngày nay sự bóc lột mở rộng ra phạm vi quốc tế: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi ngang giá dẫn đến việc bòn rút siêu lợi nhuận từ các nước kém phát triển hơn làm cho sự cách biệt giàu-nghèo tăng lên, bản chất mâu thuẫn nổi bật trong thời đại hiện nay. Sự bòn rút chất xám, huỷ hoại môi sinh, phá hoại cội rễ đời sống văn hoá xã hội…là những tác hại gián tiếp của quy luật giá trị thặng dư. ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu quy luật giá trị thặng dư trong quản lý các doanh nghiệp nước ta hiện nay khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: 1.1. Điều kiện nước ta: Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó, đem lại những tiến bộ vượt bậc và thành tựu đáng kinh ngạc cho chủ nghĩa tư bản. Nước ta nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đang nỗ lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Riêng với nước ta, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa từ chế độ phong kiến, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, xuất phát điểm là một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được, trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là quy luật giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia xây dựng nền kinh tế tự cấp khép kín, kế hoạch hoá tập trung. Ngày nay chúng ta thực hiện chính sách kinh tế mới: chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy nên hiểu như thế nào cho đúng? 1.2. Hiểu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thuật ngữ được sử dụng là kinh tế hàng hóa: nền kinh tế hàng hóa là một nền kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá. Chúng ta đã xoá bỏ chế độ bao cấp, tem phiếu. Ngày nay, quan hệ trên thị trường Việt Nam là quan hệ trao đổi hàng hoá-tiền tệ. iệt Nam đã mở cửa nền kinh tế, cho phép cơ chế thị trường hoạt động. Cơ chế thị trường là những nhân tố, biện pháp, quan hệ, công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động đến nền kinh tế thị trường để nó vận động theo những quy luật vốn có của nó nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kì nhất định. Trong cơ chế thị trường mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Trước đây, sự hoạt động của nền kinh tế chịu sự quản lí, điều tiết của nhà nước từ vĩ mô đến vi mô, nhiều chính sách không phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế đã làm cho kinh tế trì trệ, chậm phát triển. Công nhận cơ chế thị trường và ủng hộ cho kinh tế phát triển tự do theo những quy luật vốn có của nó thì mới có thể phát triển được kinh tế. Tuy nhiên, nếu để cơ chế thị trường tự do hoạt động thì sẽ làm chệch hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta vì cơ chế này bên cạnh tính ưu việt của nó thì còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng xấu. Phương châm của ta là xây dựng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phải có sự điều tiết của nhà nước thì mới đảm bảo phát triển kinh tế hàng hoá vì mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 2. Lí do của việc tồn tại quy luật giá trị thặng dư ở nước ta: Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nhằm tận dụng vốn, kĩ thuật, công nghệ và quản lý sản xuất kinh doanh của tư bản để phát huy tối đa nguồn nhân lực, vật lực, tài nguyên quốc gia cho xây dựng đất nước. Sự đổi mới đã làm nền kinh tế nước ta có nhiều đặc điểm thay đổi như sau: Quyền tự chủ của các chủ thể kinh tế được nâng cao, môi trường kinh tế là cạnh tranh tự phát, hình thành giá cả thị trường. Mô hình kinh tế phù hợp là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, cá thể. Do đó cũng tồn tại nhiều thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, cá thể tiểu chủ, tập thể (hợp tác xã) trong đó chế độ sở hữu công hữu và thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhiều hình thức nguyên tắc phân phối được áp dụng trong đó theo hiệu quả kinh tế là chủ yếu, có mở rộng phúc lợi xã hội và chính sách xã hội...Việc đa dạng hoá nền kinh tế như trên có tác dụng lớn trong kích thích sản xuất, tạo động lực cạnh tranh trong kinh doanh. Nó đặt ra yêu cầu cho bất cứ một nhà kinh tế nào cũng phải lựa chọn phương án kinh tế tối ưu cho sản xuất. Do đó làm lực lượng sản xuất phát triển, cơ sở dân giàu, nước mạnh. Tuy nhiên đặc điểm quan trọng là nhà nước phải quản lý vĩ mô nền kinh tế, từ đó hạn chế các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, ổn định tăng trưởng nâng cao hiệu quả kinh tế, giải quyết công bằng xã hội và định hướng kinh tế thị trường theo chủ nghĩa xã hội. Từ những đặc điểm trên cho thấy trong chính sách phát triển kinh tế của nhà nước ta đã cho phép sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế căn bản tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Trước đây khi nền kinh tế vận hành theo kế hoạch hoá tập trung, làm việc tập thể, làm chung hưởng chung, phân phối bình quân, không thừa nhận sở hữu tư nhân và tư hữu. Vì vậy rõ ràng quy luật giá trị thặng dư không tồn tại. Sự hoạt động của quy luật này ở nước ta tác động tới các lĩnh vực của sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, ở đây chỉ xin đề cập đến ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá trị thặng dư với việc quản lý các doanh nghiệp. 3. Tác dụng của quy luật giá trị thặng dư trong quản lý các doanh nghiệp nước ta: .3.1. Doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở nước ta: Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do Nhà nước hoặc các đoàn thể hoặc tư nhân đầu tư vốn thực hiện các hoạt động kinh doanh. Hiện nay trong nước ta tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp như saư: bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các công ty, các hợp tác xã…Trong đó doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp tư nhân đang tăng lên cả số lượng và vai trò, các loại hình công ty rất đa dạng. Sự tác động của quy luật giá trị thặng dư tới công tác quản lý trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau rất khác nhau: 3.2. Giá trị thặng dư trong quản lý doanh nghiệp tư nhân: Việc vận dụng quy luật giá trị thặng dư đã đem lại những thành tựu to lớn trong công tác quản lý trong các doanh nghiệp tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp tư bản tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và có sự bóc lột lao động làm thuê. Tuy mới chỉ bước đầu làm quen và ứng dụng quy luật giá trị thặng dư nhưng cũng đã tạo ra những bước biến đổi đáng kể. Trước kia là cơ chế kinh tế hàng hóa, các doanh nghiệp đều là của quốc doanh tập thể. Tình trạng cha chung không ai khóc diễn ra. Vì vậy công tác quản lý rất lỏng lẻo và kém hiệu quả. Hoạt động sản xuất diễn ra do mục đích giá trị sử dụng. Vốn đầu tư cho sản xuất từ nhà nước nên quản lý vốn rất yếu kém, không đặt ra yêu cầu sử dụng đồng vốn có hiệu quả, giám đốc các doanh nghiệp nhà nước yếu kém trong đầu tư nguồn vốn cho sản xuất. Hiện tượng tham ô, rò rỉ vốn của nhà nước xảy ra một cách nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do năng lực quản lý yếu kém. Các cơ quan cán bộ cấp trên có tầm nhìn hạn chế trong khía cạnh nào đó vì không phải là người trực tiếp quản lý vốn, bị che mắt bởi các báo cáo sai. Còn các cán bộ trực tiếp quản lý đồng vốn, do không có động lực, họ không phải là người bỏ tiền ra kinh doanh mà ta thường gọi là ''tiền chùa'',vì vậy sư dụng lãng phí và kém hiệu quả xảy ra hiện tượng rút ruột nhà nước. Cũng do chế độ sở hữu là công hữu, công tác quản lý sản xuất có động lực ít trong việc sử dụng tiết kiệm nguồn năng lực đầu vào như nguyên nhiên vật liệu lao động và thiết bị máy móc để tạo ra hiệu quả cao nhất. Khi nhà quản lí kém hăng hái nhiệt tình trong công việc thi nguời công nhân cấp dưới cũng làm việc chểnh mảng,kém hiệu quả, năng suất thấp.Thực vậy,dù cho quản lý hiệu quả hay không năng suất lao động tăng nhiều hay ít ,chất lượng sản phẩm có được cải thiện hay không thì cũng không làm tăng lên hay giảm đi tiền lương mà họ được lĩnh hàng tháng và chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ. Vậy thì hãy thử đặt ra tình huống hai cán bộ quản lí, một người lao lực tìm mọi cách để việc quản lí của mình đem lại hiệu quả tối ưu; họ phải đầu tư hao tổn nhiều thời gian công sức tổn đồng thời phải thuyết phục. Nếu thành công thì được khen vài câu ngoài ra không có lợi ích gì, còn nếu mắc sai sót thì bị phạt quở mắng. Và một cán bộ quản lý cứ để công tác quản lý của mình như vậy không chịu cải tiến nó, họ nhàn hạ. Khi hai người như vậy đều được hưởng phần giá trị như nhau thì bạn sẽ chọn cách nào? Tất nhiên là những con người có phẩm chất và đạo đức tốt ta luôn muốn công hiến cho đất nước. Nhưng lợi ích quốc gia phải đặt trên lợi ích cá nhân thì mới có cơ sở vững chắc để mọi người cùng xây dựng. Vì vậy tình trạng tham ô, tham nhũng, quản lý kém hiệu quả gây ra thua lỗ hàng tỷ đồng ngân sách nhà nước đã là tình trạng diễn ra phổ biến. So sánh như vậy để khi nêu ra thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay sau khi có sự xâm nhập của quy luật giá trị thặng dư trong hoạt động kinh tế đã có những chuyển biến ra sao và giúp chúng ta nhìn thấy rõ hơn tác động của quy luật giá trị thặng dư trong công tác quản lý các doanh nghiệp nước ta hiện nay. Trước hết quy luật giá trị thặng dư phát huy vai trò của nó một cách rõ nét nhất trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Nhà nước ta đã công nhận thành phần kinh tế này là một trong những thành phần kinh tế được phép tồn tại hoạt động trong nền kinh tế Việt Nam. Đặc thù của các doanh nghiệp tư bản tư nhân là nó mang đầy đủ tính chất của một doanh nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Chủ doanh nghiệp là các cá nhân, các nhà tư bản. Họ nắm tư bản trong tay và sử dụng tư bản của mình trong sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực nhằm thu lại lượng tư bản lớn hơn số vốn họ bỏ ra. Các doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân tức là không bị ràng buộc của pháp luật quy định về vốn góp tối thiểu để thành lập doanh nghiệp và về nhân sự. Sở dĩ có điều này vì nhà nước ta đã công nhận sở hữu tư nhân (tư hữu) và đề cao lợi ích cá nhân. Những người này được gọi là các nhà tư bản. Họ dùng tư bản mua đầu vào sản xuất từ máy móc, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cho đến việc thuê lao động để sản xuất và trả lương. Số lượng vốn góp vào doanh nghiệp nhiều, ít là do chủ doanh nghiệp quyết định. Lãi hưởng toàn bộ còn lỗ cũng phải chịu trách nhiệm toàn bộ. Hoạt động của họ dựa trên quy luật giá trị thặng dư: cái làm cho tư bản của họ tăng lên chính là giá trị thặng dư mà họ chiếm của người công nhân làm thuê. Mục đích của họ là làm sao cho giá trị thặng dư mà họ chiếm được ngày càng nhiều lên đáng kể. Vì vậy công tác quản lý là một hoạt động quan trọng. Họ trực tiếp quản lý hoặc thuê các nhà quản lý để làm sao họ tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá lợi nhuận. Công tác quản lý của họ thực sự chặt chẽ, hiệu quả và đáng học tập. Tất cả các yếu tố của lĩnh vực sản xuất để quản lý tối ưu. Họ sử dụng đồng vốn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, họ sử dụng tiết kiệm vốn và đầu tư tập trung. Việc lựa chọn nguyên nhiên vật liệu phải có chất lượng tốt, giá rẻ, vận chuyển thuận lợi, máy móc phù hợp với trình độ, năng lực sản xuất và được sử dụng có kế hoạch bảo dưỡng thường xuyên, tránh hao mòn máy móc. Người lao động được lựa chọn có kĩ năng, tay nghề và đặc biệt sức lao động của họ phải tạo ra giá trị mới được lớn nhất. Mọi lĩnh vực của sản xuất kinh doanh đều cần đến công tác quản lý. Đây là một hoạt động được chú trọng nhất trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân. Họ sử dụng phương pháp quản lý tối ưu nhất sao cho với lượng tư bản bỏ ra là ít nhất, họ thu về nhiều nhất, tức là nhiều giá trị thặng dư nhất. Chính phần giá trị thặng dư là động lực cho các nhà tư bản trong công tác quản lý. Hiiện nay ở Việt Nam có rất nhiều các doanh nghiệp tư bản tư nhân hoạt động. Chủ yếu là các công ty may mặc, giày dép hay các hãng mỹ phẩm... công nhân trong nhà máy thường có lương cao hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Điều này làm người lao động dễ lầm tưởng ở các doanh nghiệp tư nhân thu nhập tốt hơn, đời sống cao hơn. Thực ra công nhân trong các doanh nghiệp này thường phải làm việc với năng suất và cường độ lao động rất cao. Hơn nữa ngày lao động của họ thường kéo dài hơn rất nhiều, họ thường làm thêm ca ba, làm bán thời gian... đó là các biện pháp mà các ông chủ tư bản thường dùng để bóc lột giá trị thặng dư mà họ tạo ra. Người công nhân thực chất đã tạo ra một lượng giá trị lớn hơn rất nhiều lần bản thân giá trị sức lao động của họ mà nhà tư bản đã mua bằng hình thức trả lương. Điều này được các nhà tư bản lợi dụng triệt để đặc biệt ở một nước đặc thù như nước ta: nguồn lao động dồi dào và giá rẻ. Do sự dư thừa nhân công và thiếu việc làm làm cho nhà tư bản sở hữu một lượng lao động không công nhất định và làm giá trị sức lao động giảm. Phẩm chất của người lao động Việt Nam là cần cù chịu khó và chịu được những công việc nặng nhọc với mức lương thấp do đời sống còn khó khăn. Vì vậy khối lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm là rất lớn. Người ta thường nói lao động cật lực là cái giá phải trả cho mức lương cao hơn khi làm việc cho các doanh nghiệp tư nhân. Có làm việc hiệu quả họ mới có chỗ đứng, có khả năng bám trụ và hưởng lương cao. Ta không thể phủ nhận quy luật giá trị thặng dư đã cải thiện hoàn toàn công tác quản lý bằng những gì nó thể hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân. Mục đích là giá trị thặng dư đã kích thích cải tiến kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ phân công lao động, tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra công ăn việc làm, thu nhập cao và khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội. Với mục đích không ngừng nâng cao khối lượng giá trị thặng dư các nhà tư bản đã vận dụng nhiề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60044.DOC
Tài liệu liên quan