Làm theo năng lực, hưởng theo lao động và những đóng góp khác vào quá trình phát triển kinh tế và xã hội là những nội dung cơ bản của công bằng xã hội. Do vậy, phải chấp nhận sự khác biệt trong thu nhập do năng lực và điều kiện của mỗi người tham gia vào guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội không giống nhau. Phải phân biệt thật rõ ràng công bằng xã hội với chủ nghĩa bình quân đã có thời làm thui chột, thậm chí triệt tiêu động lực sản xuất, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Trong nội dung của công bằng xã hội đã bao hàm thái độ chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp, có lợi cho sự phát triển đất nước. Công bằng xã hội là khuyến khích làm giàu chính đáng, giảm dần khoảng cách giàu nghèo, thực hiện các chính sách giúp đỡ những đối tượng có hẫng hụt trong xã hội.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCH ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh lệnh, kế hoạch của Nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ chế kinh tế này tuy có ưu điểm là tránh được sự phân cực xã hội nhưng lại bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản. Chẳng những các quy luật kinh tế khách quan bị coi thường mà tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một cách đầy đủ. Do đó việc chuyển hướng kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hết sức cần thiết. Kinh tế thị trường định hướng XHCN khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, đẩy mạn phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng chủng loại - chất lượng hàng hoá, dịch vụ; thúc đẩy tích tục tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ; thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế; đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực của xã hội....
Vì vậy phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được coi là một yêu cầu tất yếu để xây dựng CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hoá xã hội chủ nghĩa nền sản xuất.
Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN.
Đặt vấn đề.
Từ khi Đảng ta có chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã có không ít ý kiến bình luận về vấn đề này. Một số người cho rằng thị trường là cái riêng CNTB, thậm chí là không có thị trường theo định hướng XHCN, vì kinh tế thị trường và CNXH là hai thứ không thể dung hợp được làm như hiện nay thì chỉ đẻ ra một nền kinh tế hỗn loạn, không gây ra kinh tế thị trường cũng không ra kinh tế XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN chỉ là một cách nói nhập nhằng, chỉ tạo ra một trạng thái nước đôi nửa vời, vừa làm vừa run, chỉ có lợi cho những kẻ đục nước béo cò mà thôi. Từ đó họ đi đến nhận định kinh tế thị trường bảo đảm cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước, đem lại lợi ích cho các tầng lớp nhân dân, còn việc gắn định hướng XHCN vào đây chỉ là vì lợi ích của Đảng chứ không đem lại lợi ích gì cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Phân tích mâu thuẫn và nêu phương hướng giải quyết.
Mọi người đều biết rằng kinh tế thị trường không phải là cái riêng của CNTB mà là thành quả chung của quá trinhf phát triển văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xã hội khác nhau. Bên cạnh những phạm trù quy luật chung, kinh tế thị trường còn có những đặc điểm riêng gắn liền với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Về bản chất, kinh tế thị trường không phải chỉ toàn là tiêu cực, "xấu xa" như người ta lầm tưởng. Nó có những yếu tố tiến bộ và tích cực mà không ai có thể phủ nhận. Kinh tế thị trường vừa tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội, vừa phát huy được nhân tố mở đường, hướng dẫn và chế định sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu đã chọn. Quan điểm cho rằng kinh tế thị trường gắn liền với CNTB là hoàn toàn sai lầm. CNTB chỉ có công mở rộng thị trường lớn gấp hàng nghìn lần so với thị trường dưới chế độ phong kiến và ngay thị trường TBCN cũng không ngừng thay đổi và phát triển với cả hai mặt tốt, xấu.
Do đó, việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xxchủ nghĩa là chủ trương đúng đắn. Chỉ có điều sai lầm của thời kỳ xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã xoá bỏ kinh tế thị trường theo những luận điểm sai lầm như: coi tư liệu sản xuất không phải là hàng hoá và tưởng rằng giai cấp công nhân khi nắm chính quyền trong tay có thể ra lệnh cho thị trường, và chỉ cần có lực lượng xí nghiệp quốc doanh bên cạnh các hợp tác xã là có thể phân phối công bằng mọi sản phẩm xã hội bằng bộ máy thương nghiệp quốc doanh qua một giá chỉ đạo chủ quan duy ý chí. Các xí nghiệp quốc doanh chỉ có nhiệm vụ giao nộp sản phẩm bất kể giá thành cao, chất lượng không đảm bảo.
Nhận thức rõ sai lầm trong quá khứ chúng ta có thể suy nghĩ về thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng XHCN về mặt lý thuyết và thực tế hoàn toàn không mâu thuẫn với kinh tế thị trường vì định hướng XHCN chính là thể hiện sự quản lý của Nhà nước theo khuynh hướng, định hướng đã xác định. Vấn đề đặt ra không phải là định hướng XHCN có mâu thuẫn với kinh tế thị trường hay không mà vấn đề ở chỗ bằng phương cách nào, cách thức nào để hướng kinh tế thị trường của ta theo định hướng XHCN. Chúng ta quyết không rập khuôn theo mô hình kinh tế TBCN dù dưới danh nghĩa chủ nghĩa tự do cổ điển hay chủ nghĩa tự do mới, nghĩa là quyết không để cho cơ chế thị trường tự điều tiết nền kinh tế theo quy luật "thế giới hoang dã", "cá lớn nuốt cá bé" dẫn đến chỗ "loại trừ xã hội đối với một bộ phận ngày càng lớn nhân dân lao động" như chính những nhà khoa học có đầu óc khách quan ở các nước tư bản phát triển đã chỉ ra. Cái khác cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo vì đó là sự công bằng cơ bản nhất. Công bằng về phân phối thu nhập sẽ tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác như: công bằng về chăm sóc y tế, về học hành, về các điều kiện vật chất và tinh thần.... Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, chúng ta coi trọng vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế thị trường để đảm bảo định hướng XHCN của chiến lược phát triển và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đặt vấn đề.
ở nước ta, một mặt kinh tế thị trường phát triển trong điều kiện xuất phát trong điều kiện sản xuất nhỏ thì xã hội chưa thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trường TBCN, sự cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh), sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các bộ phận dân cư và nhất là không tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra dẫn đến sự bất bình đẳng và bất công xã hội. Mặt khác định hướng xã hội chủ nghĩa không cho phép sự bất bình đẳng phát triển thành sự phân cực xã hội, không cho phép đẩy những người lao động vào tình trạng thất nghiệp, không thể chấp nhận tình trạng bất công tiêu cực ngày càng tăng. Như vậy, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN lại được biểu hiện gián tiếp thông qua mâu thuẫn giữa bình đẳng xã hội với tính cách là mục tiêu của CNXH và tình trạng bất bình đẳng, bất công không thể tránh khỏi do mặt trái kinh tế thị trường nảy sinh.
Phân tích.
Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng: Kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, là con đường để thực hiện các mục tiêu của CNXH. CNXH không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống vật chất và tinh thần mà vấn đề quan trọng hơn là công bằng - bình đẳng xã hội. Kinh tế thị trường tuy có mặt trái không thể tránh khỏi của nó nhưng về cơ bản và lâu dài, nó là một trong những điều kiện để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện hiện nay, mục tiêu công bằng của chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện ở cả hai mặt: mặt bình đẳng và mặt bất bình đẳng. Bên cạnh việc phấn đấu cho bình đẳng xã hội, chúng ta phải chấp nhận những bất bình đẳng hợp lý do yêu cầu khắt khe của kinh tế thị trường. Chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng từng mặt chứ không thể thực hiện sự bình đẳng hoàn toàn. Trong thời kỳ quá độ, kể cả trong CNXH chỉ có thể thực hiện sự bình đẳng về cơ hội, còn về mặt hưởng thụ thì nước mắt chỉ có thể phấn đấu thực hiện bình đẳng ở sự thoả mãn một số nhu cầu cơ bản, rồi dần dần phát triển lên.
Phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế TBCN, chấp nhận các hình thức sở hữu và kinh doanh có sự thuê mướn lao động và có sự bóc lột lao động; trong khi mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xoá bỏ bóc lột. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn giữa các lợi ích: lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động, mâu thuẫn giữa sự phát triển của kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Không có cơ sở để khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình thức kinh doanh có thuê mướn lao động sẽ ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nếucho rằng chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã là phát triển theo định hướng XHCN và sẽ thay thế dần các thành phần kinh tế còn lại. Tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một hướng duy nhất: định hướng XHCN. Cùng với sự trưởng thành của CNXH, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên điều này chỉ có thể và hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước XHCN, sự lớn mạnh của thành phần kinh tế hợp tác. Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích người thuê mướn lao động và người lao động làm thuê, phải có sự kết hợp hài hoà các lợi ích: lợi ích của ngưoiừ lao động làm thuê, lợi ích của người thuê mướn lao động và lợi ích của Nhà nước. Sự bất công trong mối quan hệ giữa các lợi ích đều có tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng việc xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là việc làm hoàn toàn phù hợp với các quy luật khách quan và rất thiết thực. Tuy nhiên, do sự phát sinh các mâu thuẫn nêu trên nên trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế này ở nước ta gặp phải một số khó khăn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những biện pháp giải quyết đúng đắn. Muốn phát triển nền kinh tế thị trường của ta theo định hướng XHCN phải có những yếu tố bảo đảm cho định hướng XHCN, cụ thể:
- Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua các đường lối, chính sách, kiểm tra, giám sát... Đảng phải tự đổi mới, nâng cao và hoàn thiện năng lực lãnh đạo.
- Nhà nước quản lý có hiệu lực thông qua một bộ máy Nhà nước trí tuệ, trong sạch và thống nhất từ trên xuống dưới.
- Xác lập một cơ chế quản lý kinh tế phù hợp, từng bước cải tiến và hoàn thiện theo hướng thể chế hoá các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế - xã hội, định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian dài và trong từng thời kỳ nhất định.
- Đề phòng mọi biểu hiện xa rời đường lối của Đảng và các khuynh hướng chệch hướng XHCN trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
Mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội biểu hiện tập trung ở mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề công bằng xã hội.
Sự thống nhất biện chứng và mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có sự thống nhất biện chứng với nhau. Mỗi chính sách kinh tế đều nhằm những mục tiêu xã hội nhất định và ngược lại, mỗi chính sách xã hội đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định. Việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của xã hội, việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân là mục tiêu cao nhất của tăng trưởng kinh tế. Trình độ phát triển của kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện các mục tiêu xã hội. Sự thống nhất này còn thể hiện ở chỗ xét đến cùng, chính sách xã hội không bao giờ có thể thoát ly được mức độ và trình độ phát triển kinh tế mà xã hội đạt được.
Tuy nhiên, giữa phát triển kinh tế và chính sách xã hội cũng tồn tại những mâu thuẫn. Quá trình nâng cao hiệu quả kinh tế là tìm cách đạt được kết quả sản xuất - kinh doanh với chi phí ít nhất về nguồn lực. Do đó nó thường kéo theo những vấn đề xã hội như việc làm, thất nghiệp, các tệ nạn xã hội, sự thay đổi các nhận thức giá trị... làm cho các chính sách xã hội chưa thể hiện điều chỉnh kịp thời và hậu quả là các vấn đề xã hội thường làm tăng gánh nặng cho chính sách xã hội. Ngoài sự phát triển kinh tế, đặc biệt là sự thái quá về hiệu quả kinh tế đơn thuần dẫn đến việc huỷ hoại môi trường sinh thái, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều thế hệ con người, mà cuối cùng, xã hội cũng phải giải quyết thông qua chính sách xã hội. Có thể nói mâu thuẫn này là mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và vấnđề công bằng xã hội.
Đặt vấn đề.
Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội còn đựơc biểu hiện tập trung thông qua mối quan hệ giưã tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tính thống nhất biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thể hiện ở chỗ không thể thực hiện được đầy đủ sự công bằng xã hội nếu không dựa trên mức độ và trình độ phát triển mà xã hội đạt được. Thoát ly điều kiện này sẽ dẫn đến sự công bằng giả tạo, phi thực tế. Ngược lại, nếu không chú trọng đến công bằng xã hội mà chỉ tập trung cho tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nguy cơ mất ônr định về mặt xã hội và hậu quả là kinh tế bị kìm hãm, không thể tăng trưởng được.
Tuy nhiên, cũng như mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn tồn tại đầy mâu thuẫn trong một cơ thể kinh tế - xã hội và nếu muốn dung hoà thì rất khó. Rõ ràng tăng trưởng kinh tế tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công bằng xã hội một cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy phát triển xã hội. Bởi vì tăng trưởng kinh tế còn phải qua khâu phân phối mới đưa các phúc lợi đến các tầng lớp dân cư. Chính trong quá trình phân phối này mới thể hiện tính tiến bộ của xã hội. Khi nói tới tiến bộ xã hội có nghĩa là đề cao mặt chất lượng của phát triển xã hội. Vấn đề này, quan điểm của Ngân hàng thế giới là: "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một cách cơ bản để có được sự phát triển nhưng trong bản thân nó là một đại diện không toàn vẹn của tiến bộ". Điều này cho thấy tăng trưởng kinh tế là phương tiện cơ bản để đạt tới sự phát triển, nhưng mốn có bình đẳng và tiến bộ xã hội cần phải có những chính sách xã hội. Nếu một xã hội tăng trưởng kinh tế cao nhưng trong xã hội đầy rẫy những bất công, môi trường sinh thái và môi trường xã hội bị phá hủy, không đảm bảo mục tiêu phát triển con người thì xã hội đó không phải là một xã hội công bằng và tiến bộ.
Kinh tế thị trường tạo ra một động lực cho nền kinh tế tăng trưởng. Đó là lợi ích cá nhân. Động lực này đã làm chuyển động, vận hành nền kinh tế, thôi thúc cá nhân và toàn xã hội tìm kiếm phương thức thoả mãn nhu cầu theo các tốt nhất. Tuy nhiên, cũng chính bản thân nền kinh tế thị trường, nhân tố lợi ích cá nhân đã tạo ra sự phân hoá sâu sắc về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Điều này bắt nguồn từ sự khác biệt lớn về phân phối nguồn lực ban đầu giữa các cá nhân và dân cư, từ hoàn cảnh cá nhân và các điều kiện tự nhiên, lịch sử kinh tế - xã hội khác nhau, cộng với tính chất lạnh lùng tàn nhẫn, mà khoan nhượng của thị trường cạnh tranh.
Thị trường với những quy luật của nó có thể kích thích tăng trưởng kinh tế nhưng điều đó không đồng nghĩa với đảm bảo công bằng xã hội. Do tác động cảu cưo chế thị trường, của liên minh khu vực và quốc tế, của sự phân công và hợp tác lao động; do một số yếu tố khách quan như: điều kiện địa lý, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, các nguồn lực... mà trong nội bộ một nước, một vùng có nơi tăng trưởng nhanh và có nơi tăng trưởng rất chậm. Điều này cũng bắt nguồn từ đòi hỏi của tăng trưởng kinh tế phải tập trung nguồn lực (nhân lực, vật lực) vào một số vùng trọng điểm, một số ngành mũi nhọn, vì vậy dễ mất cân đối trong việc đầu tư phát triển giữa các vùng, các ngành. Tăng trưởng kinh tế cũng đòi hỏi một bộ phận dân cư "vượt" lên trên và trong cuộc "chạy đua" sẽ có người "tụt hậu". Như vậy, là sự chênh lệch sẽ xẩy ra. Có thể nói mặt trái của tăng trưởng kinh tế kích thích thu lợi nhuận và phân cực xã hội, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa thành thị và nông thôn, vùng núi và vùng đồng bằng, đi ngược lại với mục tiêu công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đang có nguy cơ làm cho sự phân hoá giàu nghèo tăng lên. Một bộ phận dân cư, chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng dân tộc và miền núi vẫn đang trong tình trạng nghèo đói, có nới hầu như như bị tách biệt khỏi tiến trình đổi mới và và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điều này làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp có xu hướng đi ngược lại với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng XHCN.
Như vậy, bên cạnh sự thống nhất biện chứng, về một khía cạnh nào đó, giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề công bằng xã hội còn tồn tại mâu thuẫn rất khó dung hoà. Nếu không giải quyết tốt mâu thuẫn này thì việc xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hướng tới sự tăng trưởng nhanh và bền vững, trong đó hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đều cao, vừa tự do cá nhân vừa có công bằng xã hội ở nước ta là rất khó thực hiện.
Phân tích mâu thuẫn và nêu hướng giải quyết:
Trước khi đi vào phân tích mâu thuẫn, ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
- Có chế thị trường kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế thị trường đã phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu - người nghèo và chuyên môn hoá họ thành những người sản xuất và những người quản lý. Khi phát triển hơn, nền kinh tế thị trường tiếp tục phân hoá và chuyên môn hoá các nhà kinh doanh vào các ngành, các lĩnh vực mà ở đó họ có ưu thế nhất.
- Công bằng xã hội là một giá trị cơ bản và có tính định hướng trong việc thoả mãn nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận dân cư và mọi thành viên của xã hội thông qua mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ hoặc sở hữu và hưởng thụ....
Làm theo năng lực, hưởng theo lao động và những đóng góp khác vào quá trình phát triển kinh tế và xã hội là những nội dung cơ bản của công bằng xã hội. Do vậy, phải chấp nhận sự khác biệt trong thu nhập do năng lực và điều kiện của mỗi người tham gia vào guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội không giống nhau. Phải phân biệt thật rõ ràng công bằng xã hội với chủ nghĩa bình quân đã có thời làm thui chột, thậm chí triệt tiêu động lực sản xuất, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Trong nội dung của công bằng xã hội đã bao hàm thái độ chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp, có lợi cho sự phát triển đất nước. Công bằng xã hội là khuyến khích làm giàu chính đáng, giảm dần khoảng cách giàu nghèo, thực hiện các chính sách giúp đỡ những đối tượng có hẫng hụt trong xã hội.
Đặc trưng của kinh tế thị trường là cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn. Theo báo cáo về sự phát triển của Ngân hàng thế giới "Không có bằng chứng nào cho thấy sự tăng trưởng kinh tế lại đi đôi một cách tích cực với tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, hoặc sự bất bình đẳng ấy đưa tới những nhịp độ tăng trưởng cao hơn".
Thông thường các nước có nền kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh tế thị trường TBCN, những người đã có sở hữu về bất động sản, nắm giữ vị trí có ảnh hưởng và có học vấn tốt sẽ có điều kiện tốt nhất để thu được lợi ích khi quá trình tăng trưởng diễn ra. Như vậy, sẽ xảy ra hiện tượng phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo dẫn đến sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Điều này cũng tác động ngược trở lại, ngăn cản, kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, trong sự phát triển kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi mặt trái của tăng trưởng kinh tế đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, đưa đến nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự tồn tại của CNTB. Song vấn đề đó không bao giờ và không thể nào giải quyết được triệt để trong chế độ tư bản.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, Đảng và Nhà nước chủ động giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát triển kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới. Sự thành công của nền kinh tế định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, ytế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái được bảo vẹe.
Vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội liên quan đến đường lối chiến lược phát triển dài lâu của đất nước, đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta một vài lựa chọn
(1): Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng phải chấp nhận phân hoá giàu nghèo trong xã hội lớn hơn, tiêu cực nhiều hơn.
(2): Xã hội bình đẳng hơn, phân hoá thấp hơn nhưng tốc độ tăng trưởng chậm.
(3): Kết hợp ở một mức độ nào đó giữa (1) và (2)
Cho đến nay chưa có một lý thuyết nào chứng minh là có sự liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân hoá xã hội. Ngược lại, từ thực tiễn phát triển và các phân tích thống kê đều cho thấy tốc độ tăng trưởng có thể đi liền với các chính sách làm giảm mức phân hoá xã hội và làm tăng vai trò tích cực của Nhà nước. Nhà nước có thể dùng quyền phân phối lại lợi tức của mình để phát triển giáo dục, y tế... và nâng cao mức sống người dân nói chung. Để giải quyết muâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, Nhà nước chiếm một vai trò hết sức quan trọng. Vai trò của Nhà nước không phải là triệt tiêu sự phân hoá xã hội mà là chủ động quyền phân phối lại của mình để tạo thêm động lực phát triển và như vậy sẽ làm giảm mức phân hoá trong xã hội.
Mâu thuãn giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường tự nhiên.
Đặt vấn đề:
Tăng trưởng kinh tế tự mở đường đi cho mình thông qua cơ chế lợi ích và lợi nhuận, xuất phát từ yêu cầu có nhiều của cải vật chất, tinh thần. Nói như U.Pơti: "Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải" thì để có nhiều của cải, sự tăng trưởng cũng đồng thời là quá trình bào mòn những ưu thế tự nhiên.
Trên thực tế, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu sinh thái hình như là đối lập nhau. Để tăng trưởng kinh tế không thể không khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển công nghiệp mà các chất thải của sản xuất công nghiệp thường độc hại với trình độ công nghệ thấp và trung bình thì không thể xử lý triệt để, do vậy chắc chắn sẽ dẫn đến sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, do khoa học - công nghệ - nước ta còn kém phát triển, kỹ thuật khai thác cũng như trình độ sử dụng, phân loại, chế biến các loại tài nguyên còn thấp gây nên sự lãng phí tài nguyên, đồng thời cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường. Quá trình tăng trưởng kinh tế diễn ra càng nhanh thì nguồn lực thiên nhiên càng đi dần tới cạn kiệt, càng phát triển mạnh thì càng phải đối mặt với những nguy cơ đe doạ, càng thoả mãn được cuộc sống hiện tại thì có khi càng gây đau khổ cho thế hệ tương lai. Tất cả các việc khai thác rừng, khai thác tài nguyên khoáng sản, khai thác biển... đều nhằm mục tiêu tăng trưởng nhưng đều xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, đều gây bất công cho xã hội tương lai.
Phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
Nhiều nhà phân tích kinh tế đã nhận xét rằng mục tiêu kinh tế - tăng trưởng kinh tế và mục tiêu sinh thái - bảo vệ môi trường tự nhiên hình như có sự đối lập. Bởi vì để tăng trưởng nhanh, chắc chắn phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên song thực ra, chỉ có thể hiểu sự đối lập này chỉ trong trường hợp là biểu hiện cụ thể của hoạt động con người vì lợi ích trước mắt. Xét trên bình diện mục đích và lợi ích lâu dài, hai mục tiêu đó hoàn toàn thống nhất với nhau trong quá trình phát triển của một chỉnh thể tự nhiên - xã hội, là hai mặt bổ sung cho nhau của cùng một chương trình hoạt động duy nhất hướng về sự sống và sự phát triển của bản thân con người cũng như tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là nhằm tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội; mục tiêu sinh thái là sự khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng bậc nhất của sự phát triển xã hội, song đó không phải là mục tiêu duy nhất và càng không phải là tất cả. Ngày nay, chúng ta đã nhận thức được cái giá quá đắt phải trả cho sự tăng trưởng kinh tế đơn phương đó: một môi trường đã và đang bị tàn phá, một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu đang đe doạ sự sống của trái đất.
Ph. Ăng - ghen đã từng nói: "Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì mỗi lần ta đạt được một thắng lợi là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta".
Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối phát triển của nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới là đạt tới sự phồn thịnh về kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35390.doc