Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

 

A. Lời nói đầu 2

B. Nội dung 3

I. Lý luận chung của mâu thuẫn 3

1. Vai trò của quy luật 3

2. Nội dung của quy luật 5

II. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 12

1. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 16

2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. 16

3. Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước 17

4. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. 20

5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia và quản lý điều tiết của nhà nước 20

III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam . 22

1. Thực chất nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 22

2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội ở nước ta 24

Kết luận 40

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
eo tem phiếu và xem các mặt hàng làm sao đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, chen chân vào được và hơn nữa trụ lại được ở thị trường của các nước khác. Như vậy phát triển sản xuất hàng hoá đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Kinh tế hàng hoá không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mữ hơn. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởgn GDP bình quân hàng năm trong những năm 1991 - 1995 là 8,3% vượt mức đề ra ( 5,5% - 6%) 1. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiẹn tại và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa và những quan điẻm phương hướng tổng quát và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, đã có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động. 2. Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ thực hiẹn "cơ chế tập trung quan liêu bao cấp" tại ở Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng ta thừa nhận: " chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những qui luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế" Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cảu lực lượng sản xuất. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại ( do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do ). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. 3 Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chỉ đạo của kinh tế Nhà nước. Trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế do lịch sử để lại và còn có lợi ích cho sự phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể. Thực tế ở Việt Nam, thành phần kinh tế tư nhân đã có đóng góp ngày càng tăng vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ đầu thập niên đến nay. Nếu tính toàn bộ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung, đóng góp của khu vực này qua các năm như sau (theo giá năm 1989 ) đơn vị: Tỷ đồng. 1990 1991 1992 1993 1994 19856 20755 22201 23623 25224 Cao hơn so với thành phần kinh tế quốc doanh lần lượt là: 10186 tỷ; 10224 tỷ; 10411 tỷ; 10511 tỷ; 10466 tỷ. Tỷ lệ đóng góp vào ngân sách qua thuế công thương nghiệp, dịch vụ của kinh tế ngoài quốc doanh so với GDP cũng tăng liên tục từ năm 1991 đến 1994 3,8%; 5,2%; 6,3%; và 5,5%. Thành phần kinh tế cá thể có khả năng đóng góp nhiều lợi ích cho xã hội như tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm, truyền thống sản xuất. Nó có phạm vi hoạt động rộng trong phạm vi cả nước, có mặt các vùng kinh tế, sản xuất trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình cải tạo XHCN nền kinh tế cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới. Kinh tế tư bản Nhà nước, các loại kinh tế HTX. Trong quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế mới vẫn còn bị ảnh hưởng những khuyết tật của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã phủ định những mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế quá độ. Sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tuye không gay gắt những cũng có những hạn chế nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Mâu thuẫn giai cấp là một tất yếu khách quan, của bất kỳ một xã hội nào và mâu thuẫn chính là cơ sở cho sự phát triển của xã hội đó. ở nước ta bên cạnh mâu thuẫn giai cấp còn có mâu thuẫn chế độ sở hữu. Mấy măn trước đây đã ồ ạt xóa bỏ chế độ tư hữu xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới đã khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò cảu sự tồn tại của hình thức tư hưu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Cần gắn với lợi ích sở hữu kinh tế vì lợi ích kinh tế là bản chất kinh tế của xã hội. Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ Tư bản, từ một nước xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, kinh tế nông nghiệp kém phát triển. Bên cạnh những nước XHCN đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn còn là một nước XHCN lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Vì thế mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB đang diễn ra gay gắt. Trước mắt CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu đổi mới khoa học công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý. Chính nhờ những thứ đó mà các nước tư bản có nền đại chủ nghĩa tư bản phát triển. Các nước XHCN trong đó có Việt Nam phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Chính sự vận động của tất cả các mâu thuẫn đó đã dẫn tới hậu quả tất yếu phải đổi mới nền kinh tế nước ta và một trong những thành tựu về đổi mới nền kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng độc quyền, tạo ra động lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của kinh tế quá độ, vừa là tất yếu cần thiết vừa là phương tiện đã đạt được mục tiêu của nền sản xuất xã hội nó vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế vừa đảm bảo kết hợp hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó là động lực của sự phát triển. Trong phát triển kinh tế vai trò chủ đạo cua kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "bàn tay hữu hình" của Nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là " đài chỉ huy" là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập. 4. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN,là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là sự bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài Nhà nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề để cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác trên thế giới. 5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những qui luật kinh tế nội tại của kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sư quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh - hợp tác ... ) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận ( là giá trị không ngừng tăng lên ) qui định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các củng cố, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình ( kinh tế Nhà nước ), Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Như đã biết, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong " tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản "không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối "trả tiền ngay" không tình nghĩa". Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phương Tây Egát Moring đã đưa ra nhận xét chua chát: " trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người". Vì vậy nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội - xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực thị trường trong nước gần với thị trường thế giới thực hiện những thong lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng mà là xu hướng chung của nền kinh tế trên thế giới hiện nay ( ở đây muốn nhấn mạnh sự khác biệt giữa nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới) trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý trên tiền đề khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo định hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia và phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng cảu kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu với kinh tế nước ngoài. Sự mở cửa hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học - công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Thực chất nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1 Khái niệm kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó, sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, tiền tệ, với quan hệ cung cầu ... trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá, Mọi hoạt động xã hội đều phải tình đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất thì cũng phải sản xuất các quan hệ hàng hoá như mắt khâu trung gian. 1.2 Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thành tựu của 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho nước ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Những kế hoạch những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Bước chuyển sang kinh tế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó, nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của những quan hệ thị trường " ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường mới chỉ đang hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN, song cũng tác động khá rõ đén mọi mặt của đời sống xã hội và để lại đó những dấu ấn của mình..." Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu thuần nhất với hai thành phần kinh tế tập thể và quốc doanh, thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước thì còn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác, về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của kinh tế thị trường. Trên con đường CNH - HĐH, việc chúng ta bắt đầu sử dụng thị trường như một công cụ, một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, đã đem lại những kết quả tích cực về cả phương diện, thực tiễn lẫn phương diện nhận thức. Một hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới cho chúng ta là, sản xuất hàng hoá cùng với "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thh " hiện nay đã được chúng ta hiểu là không mâu thuẫn với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài. Kinh tế thị trường rõ ràng là khách quan là tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một mặt là nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế buộc phải tự khẳng định mình - vai trò của mình trong thị trường. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trì: " Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế " Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải báo về cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề về chính trị. Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới hình thành. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. TRung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính quyền đó là công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê pháp quan niệm của Đuyrich cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế,. F. Engen đã khẳng định " bạo lực cho là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục đích". Trong tác phẩm "Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức", F.Engen đã chỉ rõ "để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế . Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Engen " bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I Lênin đã khẳng định " chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế " khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định " không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6/1994) Đảng ta đã khẳng định: " Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế , phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đảng vaqf Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thực hiện dân chủ" Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phỉa thận trọng không gây mất ổn định về chính trị. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ( tháng 7 năm 1996 ) của Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là một bài học khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. TRong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học. ổn định về chính trị, nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình. Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo cảu Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước XHCN bảo vệ và xây dựng thành công CNXH. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng khẳng định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị. ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN và nhờ đó mới giữ vững ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tuỳ tiện mà theo một định hướng nhất định. Đó là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" hay nói ngắn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" và đó cũng là cơ sở để giữ vững ổn định về chính trị. Tóm lại: ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới đổi mới, và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác đọng qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60165.DOC
Tài liệu liên quan