Trong vòng 3 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, đã có 72000 doanh nghiệp mới ra đời, tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sông xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp tư nhân tham gia hoạt động thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp nêu trên. Sự tham gia của kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp công ty, các hộ gia đình, thương lái,chủ vựa.vào mạng lưới thương mại quốc gia đã góp phần quan trọng kích hoạt sự phát triển sản xuất hàng hoá, tạo ra sức mua hơn cho thị trường, đóng góp vốn và cơ sở vật chất kĩ thuật thương mại chung.
Vai trò của kinh tế tư nhân là rất quan trọng, không những góp phần hạn chế độc quyền của các công ty nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, làm năng động hoá toàn bộ hệ thống thương mại cả nước và hoạt động xuất nhập khẩu mà còn tạo thêm nguồn lực về vốn, trình độ quản lí, trình độ chuyên môn, trang thiết bị kĩ thuật và công nghệ. cho sự nghiệp phát triển đất nước.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững ưu thế và nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không có sức sống và sự tự phát triển nội sinh về mặt kinh tế bị va vấp nặng nề trong thực tiễn và đi đến sụp đổ. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa kinh tế thị trường phục vụ cho mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc tạo ra động cơ lợi ích và cạnh tranh mạnh mẽ, thúc đẩy các tiềm năng kinh doanh, phát triển các lực lượng sản xuất và xã hội hoá nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, chủ nghĩa tư bản đã sử dụng các thành tựu Khoa học công nghệ hiện đại và vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội hùng mạnh để can thiệp- quản lí các quá trình kinh tế vĩ mô, nhằm khắc phục hậu quả của chu trình kinh tế, hạn chế những khuyết tật và thất bại của thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hiện đại và mở rộng quan hệ thị trường trên qui mô toàn cầu.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực ấy, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Những mâu thuẫn mới của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã được chính các nhà kinh tế học tư sản nhận thức một cách sâu sắc:”kinh tế thị trường toàn cầu là do một số nhỏ những nước có ảnh hưởng đến sự phát triển bên trong các nước khác, điều tiết bằng việc thực hiện các chương trình sửa đổi được thảo ra trên cùng một mô hình, dưới sự hướng dẫn của các tổ chức hàng đầu (...). Chủ nghĩa tư bản toàn cầu vẫn chưa an ninh và đầy mâu thuẫn. Nó tràn ngập những tội phạm kinh tế, dễ tổn thương về mặt tài chính, ô nhiễm môi trường và những đe doạ về xã hội như tăng trưởng chậm làm tăng thất nghiệp và nghèo đói(...).
Do đó phát triển theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là duy nhất đúng, bởi luôn ẩn chứa trong nó những cạm bẫy, rủi ro. Càng không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngay tại quê hương phát triển rực rỡ của nó ở phương Tây, mà việc khắc phục những mâu thuẫn này cho tới nay vẫn là một vấn đề cực kì nan giải. Trong khi đó một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và nền kinh tế thị trường xã hội đang thể hiện mong muốn tìm con đường riêng nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
2-Việt Nam
Đặt trong bối cảnh thế giới toàn cầu hoá và bước quá độ của nền kinh tế nước ta từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung và từ nền kinh tế còn mang đậm nét nông nghiệp lạc hậu sang hệ thống kinh tế thị trường với những yêu cầu – áp lực phát triển rút ngắn và hội nhập vô cùng bức bách. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, có kinh nghiệm Trung Quốc về phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và đặc biệt từ tổng kết mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và gần hai mươi năm đổi mới của Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam là kinh tế sản xuất nhỏ, nguồn lao động dồi dào bao gồm nhiều tầng lớp, trong khi trình độ còn ở nhiều mức độ khác nhau thì việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu để vận dụng tối đa nguồn nhân lực phát triển kinh tế.
Từ đây, Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân lao động, trong điều kiện cầm quyền, không thể không lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng đây là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng tiến hoá khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống Việt Nam và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa qui luật khách quan và mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với logic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương xây dựnh hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đạt được sự phồn vinh hạnh phúc chung của toàn xã hội. Nó cũng là con đường thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để có thể giảm thiểu đau khổ, thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
B-Thực trạng vấn đề.
I - Mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
1. Mặt thống nhất.
Nước ta đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa từ nền sản xuất nhỏ với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Mỗi hình thức sở hữu dược biểu hiện thành một thành phần kinh tế.Trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là cơ chế thị trường. Do đó các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập. Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng,nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh trong một môi trường chung, cùng chịu sự tác động của các nhân tố, các qui luật thịtrường. Đông thời các thành phần kinh tế tác động lẫn nhau cả tích cực cả tiêu cực. Sự biến đổi của các thành phần kinh tế này sẽ làm ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế khác. Hơn thế nữa, các thành phần kinh tế có thể liên kết với nhau trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do nhà nước hướng dẫn, điều tiết, các chủ sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ xung cho nhau, bình đẳng trước pháp luật
Các thành phần kinh tế nước ta có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất. Chúng đều là bộ phận cấu thành của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất và mục tiêu duy nhất và chung nhất của chúng ta là đáp ứng yêu cầu ủa xã hội và cư dân trên hị trường để hướng tới mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế, đưa nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp phát triển. Nền kinh tế nhiều thành phần nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng đều chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế khách quan đang tác động trong thời kì quá độ khi hoàn cảnh quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc. Các hình thức sở hữu kết hợp và đan xen vào nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các thành phần kinh tế đã khơi dậy nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho xã hội, thúc đẩy hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Sự phát triển của các thành phần kinh tế là quá trình thực hiện sự kết hợp về lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và người lao động ngày càng cao hơn.
Nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở tồn tại của các giai cấp hoặc các tầng lớp khác nhau mà tổng hợp toàn bộ các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xã hội- giai cấp. Trong cơ cấu xã hội giai cấp ấy, mỗi giai cấp mỗi tầng lớp xã hội, các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều có những lợi ích kinh tế riêng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
2. Mặt mâu thuẫn.
Bên cạnh mặt thống nhất, các thành phần kinh tế còn có sự mâu thuẫn với nhau vì mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế ngoài các qui luật kinh tế chung còn có các qui luật kinh tế đặc thù hoạt động, chi phối mỗi thành phần. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là tính tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là mâu thuẫn không thể điều hoà. Giải quyết mâu thuẫn theo hướng các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ngày càng chiếm ưu thế là nhiệm vụ căn bản của thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào là việc không đơn giản. Những mâu thuẫn này không thể giải quyết bằng biện pháp hành chính đơn thuần, bằng ý chí chủ quan, bằng bạo lực... mà phải bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ấy phát triển mạnh mẽ có lợi cho quốc kế dân sinh, hướng các thành phần kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua nhiều hình thức và mức độ khác nhau: hiệp tác, liên kết, liên doanh; bằng việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể...
Tóm lại, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm các thành phần kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lí của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại và phát triển. Đồng thời các thành phần kinh tế cần được bình đẳng trên nọi phương diện.
II - Thành tựu
1. Biểu hiện.
Tổng kết 10 năm thực hiện “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” Đại hội Đảng IX đã khẳng định:
Đến năm 2000, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tổng sản phẩm trong nước(GDP) sau mười năm tăng 2,07 lần so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng khan hiếm đã chuyển sang sản xuất đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ chỗ chủ yếu có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua cơn chấn động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu gây ra.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỉ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống còn 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành nhiều tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất lớn trong nông nghiệp, kinh tế cá thể tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lí, phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Từ chỗ bao vây cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp 3 nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và quản lí tiên tiến.
Như vậy phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ, thế và lực của đất nước đã hơn hẳn 10 năm về trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên tạo thêm điều kiện đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá.
Hiện nay, nền kinh tế thị trường nước ta bao gồm 6 thành phần kinh tế.Đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tiểu thủ cá thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Biểu hiện cụ thể của một số thành phần kinh tế như sau:
Kinh tế nhà nước
Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, vị trí và vai trò của kinh tế nhà nước có nhièu thay đổi, và những đổi thay này mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực cho sự phat triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù thay đổi, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước vẫn luôn đước khẳng định cả trên bình diện lí luận và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định:Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ dể Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Doanh nghiệp nhà nước cũng giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật
Trên thực tế, thương mại nhà nước tuy chỉ còn chiếm tỉ trọng 17,2% năm 2002, nhưng vẫn giữ được vai trò chủ đạo và kiểm soát thị trường. Trong lĩnh vực bán buôn, thương mại nhà nước vắm giữ từ 70% đến 100%thị phần trên thị trường bán buôn cả nước. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vai trò của thương mại nhà nước càng trở nên quan trọng, cùng với các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đầu tàu trong hoạt động xuất nhập khẩu và góp phần quyết định vào tăng trưởng xuất nhập khẩu tương đối nhanh và ổn định thời gian qua. Kể từ khi đổi mới nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước đã từng bước chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh để thích ứng với môi trường kinh doanh mới của thị trường. Không những tự vươn lên, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường, các doanh nghiệp nhà nước còn xuất hiện các hạt nhân, làm đầu mối đáng tin cậy để các thành phần kinh tế khác uỷ thác hoạt động. Chính ở vị thế này, có thể nói các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động kinh tế, khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp mới thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển.
Kinh tế tập thể
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước trong thời kì đổi mới, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể (Nghị quyết Đại hội Đảng IX, Nghị quyết 13 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá IX) và luật Hợp tác xã), trong những năm gần đây, khu vục kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã đã có những buớc chuyển biến sâu rộng và toàn diện từ mô hình hợp tác xã kiểu cũ sang mô hình hợp tác xã kiểu mới, đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống cộng đồng, khẳng định xu thế khách quan và từng bước nâng cao vai trò, vị thế kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, vai trò của các hợp tác xã tuy còn khiêm tốn, nhưng sự tham gia của các hợp tác xã vào lĩnh vực hoạt động này cũng rất có ý nghĩa. Tính đến ngày 31\12\2002 cả nước có 387 hợp tác xã thương mại. Các hợp tác xã này đảm bảo khoảng 1% tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ ở thị trường trong nước. Nhiều hợp tác xã còn tham gia thị trường quốc tế thành công. Các hợp tác xã thương mại- dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển khá ổn định, nhất là các mô hình hợp tác xã kinh doanh tổng hợp, kết hợp giữa kinh doanh thương mại với chế biến và dịch vụ.
Kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được chính thức công nhận tồn tại lâu dài tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986). Kinh tế tư nhân được phát triển mạnh từ khi nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (1990), Nghị định số 66/HĐBT (1992) và đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (1\1\2000).
Trong vòng 3 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, đã có 72000 doanh nghiệp mới ra đời, tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sông xã hội. Trong đó, các doanh nghiệp tư nhân tham gia hoạt động thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp nêu trên. Sự tham gia của kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp công ty, các hộ gia đình, thương lái,chủ vựa...vào mạng lưới thương mại quốc gia đã góp phần quan trọng kích hoạt sự phát triển sản xuất hàng hoá, tạo ra sức mua hơn cho thị trường, đóng góp vốn và cơ sở vật chất kĩ thuật thương mại chung...
Vai trò của kinh tế tư nhân là rất quan trọng, không những góp phần hạn chế độc quyền của các công ty nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, làm năng động hoá toàn bộ hệ thống thương mại cả nước và hoạt động xuất nhập khẩu mà còn tạo thêm nguồn lực về vốn, trình độ quản lí, trình độ chuyên môn, trang thiết bị kĩ thuật và công nghệ... cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân thể hiện ở số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng số doanh nghiệp thương mại hiện nay (trên 90%). Kinh tế tư nhân hiện đảm nhiệm hơn 80% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ trong cả nước, tham gia tích cực vào hoạt động bán buôn và hoạt động xuất nhập khẩu. Từ chỗ chỉ chiếm chưa đầy 5% trị giá xuất khẩu vào cuối những năm 90, đến nay kinh tế tư nhân đã vươn lên chiếm khoảng 18% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngay từ khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước đã đặc biệt chú trọngkhuyến khích FDI bằng việc thông qua Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Trong quá trình thực hiện Luật này đã được chỉnh sửa và bổ xung ba lần vào các năm 1992, 1996, 2000. Sau 16 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành, đã có hơn 4000 dự án với số vốn đăng kí khoảng 45 tỷ USD, với 25 tỷ USD vốn thực hiện, đóng góp 14%GDP, 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm trực tiếp cho khoảng 40 triệu lao động...
Trong lĩnh vực thương mại, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và hiện là thành phần kinh tế đóng góp nhiều nhất cho xuất khẩu và tăng trưởng xuất khẩu của đất nước. Các doanh nghiệp FDI chiếm phần quan trọng, thậm chí quyết định trong cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo như dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện vi tính...
Hiện nay, xuất khẩu của khu vực FDI hằng năm chiếm khoảng 47% đến 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và 80-90% kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI là hàng chế biến, chế tạo.
2. Nguyên nhân.
Có được những thành tựu trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ, và sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó còn là do tác động tích cực của những cơ chế chính sách đã được ban hành, do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã làm cho năng lực sản xuất của nhiều ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng khá.
Về đường lối và chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế: Đảng và Nhà nước ta đã phát huy cao độ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào đường lối xây dựng phát triển của đất nước, thể hiện qua việc lấy ý kiến của toàn Đảng, toàn dân về Dự thảo văn kiện Đại hội của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trên cơ sở đó Đảng và nhà nước ta đã đề ra được chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xh trong từng giai đoạn cụ thể.
Việc xây dựng thể chế kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tạo lập hệ thống pháp luật kinh tế, hệ thống chính sách kinh tế và đảm bảo hệ thống này có hiệu lực trong thực tế, nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống pháp luật đã tạo môi trường pháp lí cho các chủ thể kinh tế thuộc 6 thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả, gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo về mặt xã hội. Trong đó các điều kiện và môi trường pháp lý cho thành phần kinh tế nhà nước được chú trọng, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này vươn lên giữ vai trò chủ đạo, đủ sức hỗ trợ và giúp đỡ các thành phần kinh tế khác đi theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đã tạo nội lực tổng hợp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, sự cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lí của Nhà nước đã phát huy nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
III - Hạn chế.
1. Biểu hiện.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng Xã hội chủ nghĩa của nước ta còn có những hạn chế sau:
Nền kinh tế kém hiệu quả, sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bao hộ còn nặng. Qui mô nền kinh tế còn nhỏ. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao động còn thấp; giá thành nhiều sản phẩm cao hơn so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát, lãng phí. Một số công trình xây dựng lớn quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường sinh thái ở nhiều nơiô nhiễm nặng. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhìn chung chưa hợp lý. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế nhiều năm gần đây giảm sút.
Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỉ lệ cao. Kinh tế đối ngoại chưa phát huy đầy đủ khả năng; doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường. Chưa có chuyển biến đáng kể trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể chậm phát triển, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết nội lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng nhanh. Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành theo cơ chế thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
Trong quan niệm về thành phần kinh tế nhà nước chưa có sự mạch lạc, không theo đúng lý luận kinh điển về quan hệ sản xuất. Trong cách phân loại thành phầnkinh tế hiện hành, khu vực kinh tế tư nhân lại được chia thành các thành phần:kinh tế cá thể, tiểu chủ: kinh tế tư bản tư nhân;kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng xác định những hình thức cụ thể của chúng được biểu hiện như thế nào thì chưa rõ. Hơn thế nữa, các thành phần kinh tế này cũng đan xen vào nhau rất khó định hình rõ nét. Ta có thể phân biệt kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với kinh tế có vốn đầu tư trong nước, chứ hoàn toàn không thể phân biệt được kinh tế tư bản nhà nước với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Nguyên nhân
Có những khuyết điểm đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau:
Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thông nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các vấn đề: sở hữu và thành phần kinh tế; cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp cổ phần; hướng đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; đổi mới chính sách kinh tế, ...
Chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá (xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế chính sách; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị mà trọng tâm là cải cách hành chính) chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. Tình trạng nói nhiêu làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm còn diễn ra ở nhiều nơi. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp đối với một số lĩnh vực như: quy hoạch, giá cả, tài chính, ngân hàng, tài nguyên quốc gia, an toàn giao thông...
C- Một số giải pháp cơ hội và thách thức khi việt nam hội nhập quốc tế
Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và đang ở giai đoạn đàm phán rất quan trọng về mở cửa thị trường một cách toàn diện. G
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mâu thuẫn biện chứng và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở VN.DOC