Trước những đòi hỏi và sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường nhà sản xuất muốn tồn tại thì phải hiểu nhu cầu hiện thời của khách hàng. Bởi lẽ: “ Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu dùng và tiêu dùng cũng đồng thời là sản xuất”. Mỗi cái trực tiếp là mặt đối lập của cái kia nhưng đồng thời giữa hai cái đó có một sự vận động môi giới. Sản xuất tạo ra những vật liệu cho tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng không có đối tượng. Nhưng tiêu dùng cũng chính là môi giới của sản xuất, bởi vì chỉ có tiêu dùng mới tạo ra chủ thể cho sản phẩm. Sản phẩm chỉ đạt tới sự hoàn tất cuối cùng của nó trong tiêu dùng (Triết học Mac-Lênin,ĐH quản lý và kinh doanh Hà Nội trang 84-85).
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1933 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn giữa sản xuất tiêu dùng hàng hoá. Liên hệ thực tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý luận kinh tế chính trị học
Đặt vấn đề
Bất cứ một hình thái xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào sản xuất. Mác nói : “Một xã hội dù phát triển đến đâu cũng phải dựa vào sản xuất . Xã hội đó sẽ bị diệt vong nếu ngừng sản xuất dù đó chỉ là một tuần”. Khẳng định tầm quan trọng của sản xuất là cội nguồn tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Xét đến chiều dài lịch sử của nhân loại , chúng ta đều nhận ra rằng xã hội hàng hoá đã có từ rất lâu , bắt nguồn từ thời chiếm hữu nô lệ khi “ có sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên”, nghề chăn nuôi tách khỏi nghề nông” đã làm nảy ra sự cần thiết và khả năng trao đổi sản phẩm một cách thường xuyên giữa các bộ lạc và sự phân công lao động xã hội lớn làn thứ hai “ nghề thủ công tách khỏi nghề nông” đã làm cho nền sản xuất hàng hoá tức là nền sản xuất nhằm mục đích và trao đổi ra đời” (Kinh tế học – Giáo sư Trần Phương ).
Nhưng phải đến tận Chủ nghĩa tư bản , nền sản xuất hàng hoá mới thật sự phát triển theo đúng nghĩa của nó.
Mặc dù vậy, sản xuất hàng hoá ngay từ lúc mới ra đời đã bộc lộ những mâu thuẫn ngay trong lòng nó . Vì sản xuất hàng hoá thực chất là nền sản xuất nhằm mục đích trao đổi , mà đã là trao đổi thì tất yếu phải có đánh giá và đo đếm về mặt giá trị hay giá trị sử dụng.
Bên cạnh đó thì trong sản xuất lại “ hình thành tam đoạn luận” sản xuất , phân phối , trao đổi , tiêu dùng.
Trong mối quan hệ đó sản xuất là gốc , nó diễn ra ở khâu đầu và tiêu dùng là khâu cuối cùng. Trình độ sản xuất sẽ quyết định đến tiêu dùng. Giữa sản xuất tiêu dùng có mối quan hệ khăng khít nhưng lại đối lập nhau. Chính từ thực tế đó đã khiến người viết mạnh dạn đưa ra nhận định của mình với đề tài “ Mâu thuẫn giữa sản xuất tiêu dùng hàng hoá. Liên hệ thực tế ở Việt Nam. “
Xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của thầy, cô giáo cũng như ý kiến đóng góp của các bạn đồng học. Qua đây, người viết xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp đỡ và hướng dẫn hoàn thành bài viết này.
B/ giải quyết vấn đề
I/ Sản xuất hàng hoá:
Trước hết chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là sản xuất hàng hoá?
Theo Lênin toàn tập, tập 1 trang 106 có định nghĩa rằng: “ Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể, riêng lẻ sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một sản phẩm nhất định, thành thử muốn thoả mãn các nhu cầu của xã hội thì cần có mua bán các sản phẩm. Vì vậy sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường”. Vậy thì đặc điểm của sản xuất hàng hoá là sản phẩm sản xuất ra không phải để tự tiêu dùng mà để mua bán, trao đổi.
Xét về lịch sử, sản xuất hàng hoá ra đời cùng với sự ra đời của kinh tế hàng hoá khi con người có nhu cầu về trao đổi sản phẩm tiêu dùng.
Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền với hai điều kiện tiền đề đó là: Sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu tư liệu sản xuất.
Nhưng trong quá trình sản xuất hàng hoá đã diễn ra sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá trên thị trường. Do vậy, người ta đã phân chia việc trao đổi hàng hoá căn cứ vào giá trị. Vì thế, ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó quy luật giá trị tác dụng thông qua sự lên xuống của giá cả.
Đặc biệt trong sản xuất hàng hoá quy luật giá trị đã phát sinh như là một lực lượng điều tiết sản xuất mà nhờ có nó sản xuất đã có được những tỉ lệ cân đối cần thiết.Ngay như ở nước ta mấy năm trước đây,do giá cà phê trên thị trường tăng cao nên ở nhiều nơi đã đổ xô trồng cà phê,dẫn đến chỉ sau một thời gian ngắn, giá cà phê giảm mạnh gây thiệt hại rất lớn với người nông dân. Do vậy, họ đã phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên, sự cân đối trong sản xuất chỉ là tương đối và không lâu dài.
Bên cạnh đó, do các nhà sản xuất muốn chạy theo giá trị thặng dư siêu ngạch để thu được nhiều lợi nhuận hơn, họ đã tích cực cải tiến kỹ thuật và ra sức bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê hòng làm cho hàng hoá của mình hạ hơn hàng hoá của địch thủ để thu được nhiều lời hơn. Nhưng vì lòng ham muốn mà nhà sản xuất nào cũng đều ra sức cải tiến kỹ thuật do vậy kỹ thuật mới sẽ nhanh chóng phổ biến.Một khi kỹ thuật mới phổ biến thì giá trị của hàng hoá phải hạ thấp. Thị trường nước ta là một ví dụ, do yêu cầu đi lại tăng cao, các nhà sản xuất xe gắn máy đã đáp ứng thị trường bằng các loại xe phù hợp với thị hiếu và túi tiền của người tiêu dùng. Nhưng do sự tăng quá nhanh số lượng hàng hoá của mặt hàng này khiến cho giá thành của nó bị hạ thấp gây kém chất lượng ở một vài chủng loại xe. Đặc biệt là xe máy Trung Quốc…
Một lý do khác cũng giúp ta thái được mâu thuẫn là: khi mà các nhà sản xuất tập trung vào một mặt hàng này thì các mặt hàng khác lại không được chú ý nhiều đến. Ví dụ như việc trồng cà phê. Khi nhiều người tập trung vào trồng cà phê thì lúa gạo hay một số cây trồng khác sẽ bị thu hẹp dẫn đến giá cà phê thì giảm mạnh nhưng giá cả của các loại cây trồng khác tăng cao. Do vậy, cán cân cung cầu luôn bấp bênh, chênh lệch; giá trị của hàng hoá lên hay xuống một phần lớn cũng là do nguyên nhân này.
Mặt khác, từ sản xuất đến tiêu dùng còn trải qua giai đoạn phân phối và lưu thông hàng hoá. Đây cũng là một khâu rất quan trọng vì sản xuất ra và làm thế nào để đua đến tận tay người tiêu dùng còn là cả một quá trình. Tâm lý muốn dùng hàng tốt nhưng giá cả phải thấp chính là một yêu cầu cao đối với nhà sản xuất, đặt nhà sản xuất vào vị trí của người tiêu dùng.
II/ Tiêu dùng hàng hoá:
Trước những đòi hỏi và sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường nhà sản xuất muốn tồn tại thì phải hiểu nhu cầu hiện thời của khách hàng. Bởi lẽ: “ Sản xuất cũng trực tiếp là tiêu dùng và tiêu dùng cũng đồng thời là sản xuất”. Mỗi cái trực tiếp là mặt đối lập của cái kia nhưng đồng thời giữa hai cái đó có một sự vận động môi giới. Sản xuất tạo ra những vật liệu cho tiêu dùng, không có vật liệu này thì tiêu dùng không có đối tượng. Nhưng tiêu dùng cũng chính là môi giới của sản xuất, bởi vì chỉ có tiêu dùng mới tạo ra chủ thể cho sản phẩm. Sản phẩm chỉ đạt tới sự hoàn tất cuối cùng của nó trong tiêu dùng (Triết học Mac-Lênin,ĐH quản lý và kinh doanh Hà Nội trang 84-85).
Thực chất trong quá trình sản xuất và tiêu dùng thì người tiêu dùng và các nhà sản xuất tác động lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá cả thị trường, lợi nhuận thu nhập…. Các doanh nghiệp sẽ sản xuất những mặt hàng đem lại lợi nhuận cao nhất bằng những kỹ thuật sản xuất rẻ nhất và tiêu dùng của các hộ gia đình được xác định bởi số lượng tiền công có được nhờ vào lao động và lợi tức thu được nhờ sở hữu tài sản của mình. Họ có ảnh hưởng rất lớn đối với quyết định về việc sản xuất cái gì trong nền kinh tế vì họ mua và tiêu dùng phần lớn sản phẩm. Và họ muốn được thoả mãn tối đa nhu cầu với số thu nhập có hạn. Điều đó giải thích tại sao khi đứng trước một hàng hoá bán ra với giá cả khác nhau, chắc chắn người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá với mức giá thấp hơn nên có thu nhập để thoả mãn các nhu cầu khác. Vì thế mà thông thường người ta thấy rằng giá cao thì lượng mua càng ít và ngược lại khi giá cả của mặt hàng giảm thì số người mua sẽ tăng. Tuy nhiên, hàng hoá không chỉ phụ thuộc vào giá cả mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này có ảnh hưởng đến tiêu dùng như thu nhập trung bình, thói quen, sở thích của người tiêu dùng. Giá cả hàng hoá khác nhau đặc biệt là những hàng thay thế và quy mô của hàng hoá và quy mô thị trường. Suy rộng ra, điều đó có nghĩa là: nếu một hàng hoá phù hợp với yêu cầu và nhu cầu của người tiêu dùng thì nó sẽ được chấp nhận với mức giá có thể cao hơn. Ví dụ khi ta mua một bộ quần áo trong các cửa hàng thời trang sẽ đắt hơn nhiều so với việc đi mua món hàng đó ở chợ. Nhưng do tâm lý muốn được đảm bảo chất lượng hàng và thoả mãn nhu cầu riêng của mình nên họ chấp nhận giá cao.
Xét trong năm 2002 theo thời báo kinh tế Việt Nam giá nông sản tăng, giá nguyên liệu giảm: Giá gạo tăng từ 9%-16%, giá cà phê tăng nhanh trong bốn tháng cuối năm , cao su thiên nhiên tăng do cung thấp hơn cầu; Và một số mặt hàng về kim loại cũng có tốc độ giảm giá nhanh. Điều này càng khẳng định một cách rõ ràng và chặt chẽ của quy luật cung cầu về sản xuất hàng hoá hay chính là mâu thuẫn biện chứng giữa sản xuất và tiêu dùng: Đối lập nhưng vô cùng thống nhất, cái này làm tiền đề cho cái kia phát triển và là nhân tố quan trọng để thị trường tồn tại.
Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hoá.
Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị của hàng hoá.
Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá.
III/ Liên hệ thực tế ở Việt Nam:
ở Việt Nam, trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế nước ta được vận hành theo nguyên tắc kế hoạch tập trung, chỉ sản xuất theo kế hoạch mà không hiểu được nhu cầu của thị trường cần. Nền kinh tế luôn ở trong tình trạng thiếu hàng hoá trầm trọng. Vì sản xuất tập trung, chia theo bình quân nên không kích thích được người sản xuất cạnh tranh và hứng thú lao động.
Hiện nay, dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định, các nền kinh tế đang tồn tại khách quan và tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Nhưng nền sản xuất của ta hiện nay vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp kém. Có thể kể ra một loạt sản phẩm của Việt Nam có giá thành cao hơn từ 20% đến 40% giá thành sản phẩm của các nước trong khu vực như: đường, giấy, xi măng, vải, phân bón, hoá chất cơ bản, thép,…Nguyên nhân là do chi phí trung gian còn cao. Mức chi phí này trong công nghiệp chiếm tới 60%, Những con số này tương ứng trong nhà nước là 40% và 70%( Thời báo kinh tế Việt Nam 2002-2003).
Chi phí đầu vào của cả nền kinh tế cao là do lệ thuộc nhiều vào nhập khẩu, phần nguyên liệu sản xuất trong nước chất lượng không cao, không ổn định. Hơn thế nữa, trình độ trang thiết bị lạc hậu từ 2 đến 3 năm thế hệ so với các nước trong khu vực, công nhân kỹ thuật thiếu, tay nghề thấp. Tất cả những nguyên nhân trên đã làm cho năng suất lao động thấp.
Bên cạnh đó thì nhiều thành phần hàng hoá của Việt Nam hiện nay vẫn chưa tự sản xuất được. Nhiều loại hàng hoá chúng ta vẫn phải dựa vào nước ngoài:
sản phẩm điện tử, ô tô, dụng cụ chính xác…
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua còn mang nặng tính tự phát. Ví dụ: Trong nông nghiệp tình trạng”nuôi trồng-chặt phá’ trồng mía nhưng nhà máy chưa làm xong, khi nhà máy làm xong thì lại thiếu nguyên vật liệu.. vừa gây lúng túng vừa kém hiệu quả.
Trong khi các sản phẩm của chúng ta sản xuất ra chưa đáp ứng được thị trường trong nước và thiếu sức cạnh tranh với thị trường thế giới thì việc đầu tư vào những công trình sản xuất sản phẩm cung đã vượt cầu. Bên cạnh đó thì sức mua của xã hội còn thấp. Có nhiều nguyên nhân để giải thích tình trạng này nhưng chủ yếu là do thu nhập chúng ta còn thấp(400$/ người) dẫn đến sức mua bị chậm lại. Ngoài ra tâm lý chuộng đồ ngoại của người tiêu dùng cũng là một trở ngại rất lớn cho những nhà sản xuất của Việt Nam.
Vì vậy cần phải có những giải pháp để hạn chế bớt mâu thuẫn trong sản xuất và tiêu dùng hàng hoá tránh tình trạng cái thiếu vẫn thiếu, cái thừa vẫn thừa, sản xuất ra nhưng chất lượng không tốt ảnh hưởng lớn đến tiêu dùng.
IV/ Biện pháp khắc phục
Đứng trước những khó khăn và thử thách của một nền kinh tế thị trường đòi hỏi những nhà kinh tế, nhà sản xuất của Việt Nam phải có một cái nhìn chiến lược và những giải quyết thông minh, thực tiễn để đưa sản phẩm của mình có thể cạnh tranh và tìm được chỗ đứng trên thị trường.
Thứ nhất là phải giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết và tăng cường đến mức tối đa việc sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Tiếp theo là phải quy hoạch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế. Thứ ba là phải xác định được trọng tâm của cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm. Ta cần phải có những chính sách thông thoáng hơn nữa để có thể kêu gọi được đầu tư nước ngoài về nguồn vốn, kỹ thuật. Mặt khác, chúng ta cũng cần tính đến việc ”đi tắt đón đầu’ để có thể đạt được sản xuất hiện đại hoá ngay. Mỗi nhà sản xuất ngoài việc đầu tư cho sản phẩm của mình còn nên có chiến lược đào tạo cho mình những công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ kỹ sư vận hành, chú trọng đến những ngành sản xuất truyền thống như: mây, tre, đan , thổ cẩm…
Trong những giải pháp trên rất cần có sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước. Vai trò kinh tế của chính phủ cần phải được phác hoạ bằng ba chức năng: hiệu quả, công bằng và ổn định. Bên cạnh đó cũng cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất để sản phẩm của Việt Nam có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường thế giới.
kết luận
Từ những nhận định và lý luận trong mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, áp dụng vào đặc điểm nước ta hiện nay, ta thấy rằng:
Nắm bắt và hiểu rã bản chất vấn đề này sẽ giúp chúng ta có một sự tổ chức và điều hành một nền kinh tế phát triển hơn, đa dạng hơn về chủng loại và phong phú hơn về chất lượng.
Kinh doanh là một hoạt động mang tính thực tiễn. Vì vậy, nắm được những yếu tố của sản xuất và tiêu dùng sẽ có những nhận định đúng đắn, nhạy bén hơn trong việc xác định sản phẩm sẽ bán ra thị trường của mình và giảm được nguy cơ bị thua lỗ trong một lô sản phẩm mới sắp được bán ra xuống mức thấp nhất.
Những nhận xét khách quan từ thực tiễn và tư duy, tổng hợp, phân tích của nhà kinh doanh đã giúp họ những kinh nghiệm kinh doanh quý báu “Chỉ bán những thứ mà thị trường cần, không bán những thứ mà mình có”. Đó là một nhận xét quan trọng mà chúng ta rút ra tư kinh nghiệm thực tế trên thương trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là rất quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của toàn dân ta là tập trung mọi lực lượng tranh thủ thời cơ vượt qua thử thách, đẩy nhanh công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Phấn đấu đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000. Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững”. (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII, 1996, trang 20).
Vì vậy, chúng ta những nhà kinh tế càng cần phải nắm rõ hơn sự hình thành và phát triển các quy luật trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay. Phát hiện các quy luật mới, giải quyết những mâu thuẫn đang tồn tại. Biết vận hành các quy luật hay mâu thuẫn vào thực tế. Chúng ta hy vọng trong một tương lai không xa, bộ mặt kinh tế Việt Nam sẽ có những khởi sắc rõ rệt, dân tộc ta sẽ khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34619.doc