MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG
I. Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể
1. Chủ thể
2. Khách thể.
3. Mối quan hệ biện chứng chủ thể - khách thể
II. Thực trạng việc học và hành của sinh viên hiện nay, của nền giáo dục đại học.
1. Những mặt tích cực
2. Mặt hạn chế
3. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới nền giáo dục đại học
III. Giải pháp
1. Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay.
2. Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học
KẾT LUẬN
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11052 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể, vận dụng vào việc học và hành của sinh viên hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giáo dục đại học" đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu "mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể. Vận dụng vào việc học hành của sinh viên hiện nay" là một hướng nghiên cứu hết sức quan trọng giúp chúng ta hiểu được thực trạng giáo dục Đại học Việt Nam, từ đó giúp đề ra những giải pháp, kiến nghị phát triển nhằm mục đích nâng cao hơn nữa chất lượng của việc học và hành của sinh viên Việt Nam, góp phần làm cho giáo dục đại học ngày càng hoàn thiện hơn. Đây là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay.
Do vậy việc nghiên cứu "Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể. Vận dụng vào việc học và hành của sinh viên hiện nay" tập trung vào một số nội dung:
* Thứ nhất là: Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể
* Thứ hai là: Thực trạng của việc học và hành của sinh viên hiện nay
* Thứ ba: Giải pháp, kiến nghị
PHẦN NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ
1. Chủ thể
Chủ thể là đối tượng nhận thức quyết định bản chất nhận thức của chúng ta. Chủ thể là con người chỉ có con người mới có ý thức.
Chủ thể đóng vai trò là chủ thể của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Phản ánh ý thức phải dựa trên nhu cầu thực tiễn, do thực tiễn quy định. Nhu cầu thực tiễn quy định chủ thể phải nhận thức cái được phản ánh.
Chủ thế gắn với giai cấp và tầng lớp. Điều này có ý nghĩa đối với nhận thức. Thật vậy chủ thể gắn liền với giai cấp, tầng lớp vì mỗi thời đại có những giai cấp nhất định với những tư duy nhất định. Xã hội tạo ra những sản phẩm riêng của từng xã hội. Nhận thức của mỗi thời đại khác nhau, nó thể hiện ở sự nhận thức nội dung của kinh tế xã hội là lực lượng sản xuất, sâu xa là điều kiện sản xuất từ sản xuất dẫn tới sự hình thành giai cấp.
Ý thức chỉ có ở con người. Tinh thần, tư duy là toàn bộ triết học, khoa học khác để giải thích con người đi học để lấy tri thức nên điều kiện nguồn gốc quá trình để có những ý thức tính đa dạng để nhận thức được nhiều tri thức. Thành phần chủ thể quyết định ý thức của từng thời kì. Chẳng hạn như thời kỳ "chiếm hữu nô lệ" thì tri thức của chủ nô - giai cấp thống trị đặt ra luật bắt các giai cấp khác phải thực hiện.
2. Khách thể.
Khách thể là đối tượng của nhận thức để làm rõ bản chất của ý thức. Nó là đối tượng quyết định nhận thức, tri thức của chủ thể có được do đời sống xã hội quyết định về mặt kết cấu: gồm có hiện thực khách quan và tri thức thời đại.
Hiện thực khách quan: Định nghĩa vật chất qui định nhận thức kế thừa những tri thức của người khác, nhận thức được như thế nào để vận dụng vào đời sống. Từ bản chất qui định nhận thức của con người, nhận thức gắn liền với đối tượng. Khách thể và tri thức có những sự đồng nhất, nó không giống nhau. Vì tri thức của mỗi con người có hạn nên có tri thức chúng ta phải kế thừa. Bởi vậy mà "Giáo dục là quốc sách".
Để biến tri thức thành khách thể phải vận dụng vào thực tiễn.
3. Mối quan hệ biện chứng chủ thể - khách thể
Quan hệ của chủ thể nhận thức đối với khách thể trước hết là quan hệ vật chất, quan hệ cảm tính đối tượng chủ thể chân chính của nhận thức và của hoạt động thực tiễn được C.Mác coi là con người là xã hội loài người. Trong quá trình đấu tranh đối mặt với tự nhiên và trong quá trình sản xuất xã hội, loài người đã sản sinh ra chính con người cùng với ý thức của họ và cả hệ thống hoạt động lý luận - tinh thần của họ. Triết học trước Cantơ chưa đề xuất tư tưởng vệ tinh tích cực về hoạt động của chủ thể nhận thức. Triết học đó tiếp cận đối tượng một cách thụ động, nó chưa thể hiện được chức năng hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với đối tượng của hoạt động lý luận. Khác với các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, các nhà duy lý có quan tâm đến hoạt động của chủ thể và coi tri thức là sự tự hoạt động của chủ thể. Song, trong quan niệm của họ, khách thể và hiện thực chỉ là một. Các đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật cũ đều chỉ nhìn thấy sự phản ánh trong nhận thức mà thôi, hơn nữa họ lại quy bản thân nhận thức về sự tiếp nhận thụ động các tác động từ bên ngoài và hoàn toàn bỏ qua vai trò của chủ thể nhận thức - Cantơ đã chuyển trọng tâm từ khách thể, từ đối tượng nhận thức sang bản thân chủ thể nhận thức, sang chỗ làm rõ vai trò của chủ thể trong quá trình nhận thức. Cantơ coi khách thể, do vậy ông nhấn mạnh đến tính tích cực và đến sự hoạt động của ý thức con người. Có đầy đủ cơ sở để nói rằng tư tưởng về tính tích cực của chủ thể nhận thức việc đồng nhất đối tượng, khách thể với hiện thực khách quan là không đúng. Tất cả những cái mà con người, sự nhận thức của con người có quan hệ tới đều không tồn tại ở bên ngoài chủ thể và tính tích cực của chủ thể.
Khi vận dụng vào thúc đẩy học và hành của sinh viên chủ thể là sinh viên tiếp cận tri thức thời đại còn khách thể ở đây là tri thức thời đại. Sinh viên tiếp cận tri thức bằng cách nào. Điều kiện chủ thể tiếp thu tri thức là thực tiễn và phương pháp nhận thức. Chủ thể sinh viên đóng vai trò học và hành tiếp nhận tri thức.
II. THỰC TRẠNG VIỆC HỌC VÀ HÀNH CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY, CỦA NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC.
1. Những mặt tích cực
Người Việt ta cũng có tiếng là thông minh, hiếu học. Nền giáo dục Việt Nam ta mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất trước, trong và sau chiến tranh, đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Ta đã đào tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa học khá và cống hiến quan trọng cho cộng đồng khoa học quốc tế có thể nói sinh viên Việt Nam khá thông minh, sáng tạo, có khả năng tiếp nhận tri thức khá tốt.
2. Mặt hạn chế
Sinh viên ta mắc "bệnh" thụ động trong học tập, sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phụ lục cho chuyên môn của mình, mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
Phần lớn sinh viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo. Một kết quả nghiên cứu gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn của Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh viên, chí có khoảng 20% sinh viên đặt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình của tụ giới. Như vậy có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình. Đây là một thông tin sét đánh, buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm túc xem lại phương pháp, chương trình, cách tổ chức dạy và học trong các trường đại học của Việt Nam.
"Lười đọc…." là lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo sát ngẫu nhiên một số sinh viên các trường đại học, cao đẳng về việc đọc sách báo của họ, số đồng đều ngắc ngứ rằng "có đọc" nhưng chỉ đọc một số cuốn theo phong trào và chỉ xem sách chuyên ngành khi bị thúc bách về mặt bài vở, có sinh viên sắp ra trường vẫn chưa một lần ghé thăm thư viện. Một số đông sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng nói chung họ rất thụ động trong việc học. Thụ động bởi sinh viên chỉ đọc giảng viên yêu cầu thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận hoặc khi được khuyến khích bởi một người khác về một cuốn sách hay nào đó, tức chỉ khi bị áp chế hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xô đi đọc.
Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi và cũng có quả nhiều sinh viên quên mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thể đều mang lại những kết quả tiêu cực khác nhau. Một bên là sự hụt hẫng về kiến thức, thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị đuổi học còn bên kia lại là sự mệt mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong những năm học đại học khiến sức khỏe bị suy sụp, lạc lõng với những diễn tiến xung quanh xã hội, lạ lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hàng ngày….
Theo báo Tuổi trẻ ngày 3/10/2000 đã mời các thầy giáo đại học, các nhà quản lý, các sinh viên dự tọa đàm về "nâng cao chất lượng đào tạo đại hạ" và đã có nhiều ý kiến của sinh viên thẳng thắn bức xúc: sinh viên chúng tôi như những cố máy rỉ sét, chúng tôi vào lớp chép chính tả và sau đó trả bài thuộc lòng, lắp ghép các kiến thức rời rạc. Học đối phó và thi đối phó để lấy cho được mảnh bằng, thể thôi việc học với sinh viên là học, ghi, thì phải thuộc.
Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu "học vẹt" thiếu tính thực tiễn. Nhìn vào hiện trạng của các "sản phẩm" của nền giáo dục cao đẳng - đại học hiện nay có thể thấy rằng, hình như xã hội "không mê" các sản phẩm này. Sở dĩ có thể nói như vậy bởi vì qua một cuộc thống kê nho nhỏ về trình độ của những người tìm việc làm ở một tờ báo thành phố Hồ Chí Minh trong 3/2003 thấy được những con số quá giật mình về trình độ học vấn của những ứng viên tìm việc. Cụ thể là trong tổng 115 ứng viên tìm việc, có đến 62 người có trình độ Đại học tức chiếm 54%; có 24 người trình độ cao đẳng, tức 21% và số người có trình độ trung cấp là 29 người chiếm 25%.
Thế nhưng những con số đó muốn nói với chúng ta điều gì? Đó là sản phẩm của nền giáo dục "khoa cử". Tại sao có nhiều người có trình độ Đại học - Cao đẳng phải đi tìm việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay nghĩ rằng, có học vấn càng cao càng có nhiều cơ hội có việc làm, thế nhưng nay câu chuyện hoàn toàn ngược lại: học vấn càng cao càng phải đi tìm việc nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy.
Có nhiều lý do nhưng có một lý do đó là chất lượng của các lao động có trình độ đại học chưa đáp ứng được các nhu cầu của nền sản xuất kinh tế công nghiệp tiên tiến. Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nền giáo dục "khoa cử rất mạnh về học để thi nhưng kém về "học để làm" và "học để sáng tạo". Do đó mà từ lâu các "sản phẩm" của nền giáo dục đại học của ta đã thường xuyên bị kêu ca là không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Xét về trình độ thực tế của sinh viên tốt nghiệp thì quả là còn yếu kém, một số ngành rất yếu. Về kiến thức, kỹ năng thực hành, tính chủ động sáng tạo, về khả năng diễn đạt bằng nói hay viết sinh viên ta đều kém, tuy cá biệt có những người rất xuất sắc, nhưng số này không nhiều cũng chẳng có gì lạ, vì nhiều nơi coi đại học là "học đại".
3. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới nền giáo dục đại học
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định yêu cầu mới của nền giáo dục là: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Vấn đề mấu chốt trong đổi mới sự nghiệp giáo dục Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định là "chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Đây là cách đặt vấn đề giáo dục với yêu cầu mới: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Cách đặt vấn đề trên căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh về sự học đồng thời căn cứ vào yêu cầu đổi mới giáo dục của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Đến thăm lớp nghiên cứu chính trị khóa I trường đại học nhân dân Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân. Khái niệm học tập suốt đời phải được hiểu khác trước thì nó mới có tác dụng như một chiếc chìa khóa để giải quyết những vấn đề đặt ra trong những năm đầu của thế kỉ 21 như tăng trường kinh tế nhanh, phát triển xã hội bền vững, xóa nghèo toàn diện, nghèo về tri thức, nhân văn, thu nhập.
Mô hình giáo dục mở trong văn kiện đại hội X của Đảng chính là mô hình gắn kết giáo dục ban đầu và giáo dục liên tục thành một hệ thống trong đó tại bất cứ thời điểm nào và bất cứ không gian nào, mỗi thành viên trong xã hội không phân biệt tuổi tác, giới tính, thành phần xã hội, nghề nghiệp và địa vị xã hội đều có thể tiến hành việc học tập theo nhu cầu của cá nhân như nâng cao học vấn, hoàn thiện tay nghề, lấp những lỗ hổng trong kiến thức quản lý, trau dồi văn hóa lãnh đạo, tư tưởng đạo đức.
Mô hình giáo dục lý tưởng ấy chính là mô hình xã hội học tập mà Đảng đã đề cập từ Đại hội IX và khẳng định phải phát triển nó một cách tích cực trong những năm trước mắt. Việc thực hiện được mô hình ấy hay không tùy thuộc rất nhiều vào việc khắc phục thái độ và quan niệm lỗi thời hiện nay về giáo dục thường xuyên. Trong xã hội hiện đại, việc tổ chức hệ giáo dục thường xuyên là để con người thực hiện việc học suốt đời. Giáo dục thường xuyên đáp ứng những thách thức của một thế giới nhanh chóng thay đổi, nó mở ra sự đa dạng hóa hết sức rộng rãi đối với các hình thức học tập để mọi tài năng đều được phát huy, những thất bại học đường sẽ bị hạn chế, giúp con người có nhu cầu học, đặc biệt là thế hệ trẻ loại bỏ được cảm giác bị loại thản trong cuộc sống xã hội và luôn nhìn thấy viễn cảnh phát triển của cá nhân mình.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển hệ đại học mà Đại hội X của Đảng đã đề ra, chúng ta cần đánh giá cho đúng vai trò của trường đại học trong thế giới hiện đại. Giáo dục đại học là một động lực mạnh để phát triển kinh tế - một động lực mà giáo dục trung học không thể tạo ra được song cũng phải thừa nhận rằng giáo dục đại học luôn là tiêu điểm của việc học trong xã hội. Trường đại học vừa lưu giữ, vừa sáng tạo những tri thức, lại là một chuyển tải kinh nghiệm văn hóa và khoa học - công nghệ cho các thế hệ theo học. Giáo dục thường xuyên phải gắn với cộng đồng, mục tiêu của nó nhằm tạo nguồn nhân lực phục vụ những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của từng địa phương nên cách tổ chức của nó thường bám chắc trong từng cộng đồng.
III. GIẢI PHÁP
1) Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay.
Tạp chí Scien et vie (Pháp) đã viết: "Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy được một tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự học cao hơn".
Tự học để tiếp cận với sáng tạo. Sinh viên phải luyện độ tìm tòi và kỹ năng ứng biến. Đó là tiêu chí cần thiết để phân định sự thông thái của một chủ thể nhận thức đồng thời là chủ thể sáng tạo. Trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi người được thể hiện chủ yếu bằng hành động, thay vì chỉ dừng lại ở ý thức được thể hiện chủ yếu bằng sự đáp ứng những thử thách trong quá trình vận dụng kiến thức thay vì chỉ quanh quẩn ở việc vun bồi kiến thức. Bởi vậy các chuyên gia UNESCO đã có lý khi khẳng định: "người hiểu biết ít mà vận dụng nhiều (có hiệu quả) biểu hiện một trí tuệ hơn hẳn một người biết nhiều mà vận dụng ít". Sinh viên không chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, mà phải chuyển sang thái độ tìm tòi cách cải biến và cách ứng dụng sự lĩnh hội đó. Đối với những người có thái độ học sáng tạo thì sự tìm tòi đó có thể là:
* Tìm hiểu nhu cầu xã hội hoặc nhu cầu khoa học đối với một sản phẩm nào đó.
* Tìm hiểu những ưu điểm vượt trội cùng với những khuyết tật lớn nhỏ của một sản phẩm.
* Tìm kiếm cách thức đi tới cải tiến sản phẩm, chủ yếu: hạn chế những khuyết tật đó.
* Tìm kiểm những hiểu biết mới nhất kết hợp với những kinh nghiệm cổ truyền cho việc giải quyết vấn đề đó.
* Tìm hiểu mọi ý tưởng giản đơn cho việc phân tích và giải quyết một vấn đề phức tạp.
* Tìm hiểu những điều kiện khả thi và cách vượt lên khó khăn để thực hiện ý tưởng sáng tạo.
Như vậy thái độ tìm tòi trong khoa học và kỹ thuật tạo nên sự khai phá nhận thức khi tiếp cận thông tin, giúp chủ thể nhận thức tự thể hiện và làm nên những cá tính sắc sảo khi vận dụng kiến thức.
Để sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức, phương pháp học thì phải đưa vào chương trình học của sinh viên, những bài học từ thực tế. Thay đổi cách học theo kiểu trả bài, rồi lịch học và lịch thi cứ dày đặc, đan xen lẫn nhau. Định hướng cho việc học của sinh viên là một yêu cầu cực kỳ quan trọng, quan trọng không kém nữa là việc thiết lập một thời gian biểu hợp lý cho sinh viên trong lúc học lẫn lúc thi.
Muốn học, muốn hiểu sâu một chủ đề nào, điều quan trọng nhất là phải tự mình chạm tới nó trước, phải tự mình khơi mở trước trong đầu, như gieo mầm cho việc tiếp thu, thẩm thấu của mình. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách học với nhóm và được thầy khởi gợi, hướng dẫn. Có thể nói viết lại là cách tiếp thu tốt và truyền đạt lại cho người khác là một cách hiểu nắm vấn đề tốt nhất. Điều này sinh viên trau dồi kỹ năng đọc và viết qua việc hướng dẫn họ đọc mau, nắm vững các ý chính và viết gãy gọn, có phân tích, có chứng minh.
Một trong những vấn đề ta thường gặp ở Việt Nam là sinh viên học sinh ra trường chưa đủ khả năng sẵn sàng để đảm nhận được các công tác, chức vụ mà đáng lẽ họ phải có khả năng ứng xử độc lập. Vì vậy mà sinh viên phải phát triển cho mình khả năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề có óc thực tế, không định kiến, không câu nệ thành kiến. Muốn bắt kịp đà tiến của khoa học kỹ thuật thì sinh mình cần thay đổi phương pháp học tập lấy người học làm trung tâm. Muốn được như thế dĩ nhiên không chỉ cần có sự thay đổi tư duy của người học mà còn phải có sự thay đổi phù hợp trong hệ thống giáo dục và đào tạo nước ta.
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhân là một bộ phận không thể thiếu được trong giáo dục. Sinh viên tích vực tiếp cận, truy cập Internet để có được những thông tin khoa học mới nhất hay có cơ hội trao đổi ý kiến với bạn bè thế giới.
Phải biết vận dụng những tri thức lĩnh hội được vào thực tế, không chỉ toàn là lý thuyết. Vận dụng chúng vào sản xuất,nghiên cứu…
2. Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học
Trong thời đại cách mạng công nghệ, Đại học có vai trò chỉ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và trong khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn giáo dục phổ thông. Trước đây ta xây dựng đại học theo mô hình Liên xô cũ, nay nền đại học đó không còn thích hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, song những biện pháp sửa đổi, chắp vá và thời gian qua đã phá vỡ tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh tượng lộn xộn không còn chuẩn mực, khôn theo quy củ,tùy tiện và kém hiệu quả. Muốn thoát ra khỏi tình trạng này cần có thời gian và một lộ trình hiện đại hóa thích hợp. Trước mắt để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa, nên tập trung chỉnh đốn một số khâu then chốt đang tác động tiêu cực đến sự phát triển bình thường của đại học. Đồng thời xây dựng mới một đại học thực sự hiện đại, làm hoa tiêu hướng dẫn và thúc đẩy sự đổi mới trong toàn ngành.
Trước hết cần phải cải cách mạnh mẽ việc thi cử và đánh giá, chuyển toàn bộ việc học theo hệ thống tín chỉ, thi kiểm tra nghiêm túc từng chặng trong suốt khoa học thay vì dồn hết vào một kì thi tốt nghiệp nặng nền mà ít tác dụng. Về tuyển sinh đại học, cao đẳng nên bỏ kỳ thi hiện nay, nặng nề, căng thẳng, tốn kém mà hiệu quả thấp để thay vào đó một kỳ thi nhẹ nhàng chỉ nhằm mục đích sơ tuyển để loại những học sinh chưa đủ trình độ tối thiểu cần thiết theo học đại học. Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào do đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học THPT và thẩm vấn hoặc thi nếu cần thiết.
Thứ hai là chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ
Bằng thạc sĩ và tiến sĩ phải theo yêu cầu quốc tế, không thể tùy tiện, đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng mà phải theo chất lượng, trình độ làm tiêu chí hàng đầu. Thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động, khoa học cốt cán, nếu đào tạo dối trá, trình độ quá thấp thì không chỉ tai hại cho giáo dục, khoa học mà còn ảnh hưởng tiêu cực lâu dài đến nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng khác, nhất là trong một xã hội còn quá chuộng bằng cấp như chúng ta. Vì vậy cần chỉnh đốn từ gốc, rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, ngành được phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn yếu thì cương quyết dừng lại việc đào tạo trong nước để gửi ra đào tạo ở nước ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, lập lại kỷ cương , trật tự chống gian dối và cẩu thả trong việc đào tạo và cấp bằng. Đồng thời những cơ sở đại học nào được phép đào tạo cần có đủ quyền chủ động từ việc tuyển nghiên cứu sinh lựa chọn chương trình, cửa người hướng dẫn cho đến tổ chức phản biện bảo vệ và cấp bằng, để có thể tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội về chất lượng đào tạo.
Thứ 3 là chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS. Đây là một trong những khâu then chốt để đảm bảo chất lượng cho đại học, nhưng trong một thời gian dài cho đến hiện nay, ở nước ta đã thực hiện khá tùy tiện và còn quá nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự trì trệ kéo dài của Đại học chính là ở công tác này, thể hiện khá tập trung những chính sách nhân tài. Do đó để mở đường hiện đại hóa đại học, cần sớm chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS, trước hết cải tổ "Hội đồng chức danh GS" thành một hội đồng không trực tiếp công nhận các chức danh mà chỉ xét duyệt hàng năm, định kỳ để công nhận những người đủ tư cách ứng xử vào các chức danh GS, PGS ở các đại học và viện nghiên cứu. Hàng năm các Đại học và viện nghiên cứu công bố như cần tuyển GS, PGS để bất cứ ai đã được công nhận "đủ tư cách" đều có thể dự tuyển.
Thứ 4 là cải thiện chính sách sử dụng giảng viên đại học. Tình trạng phổ biến hiện nay ở các Đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ (25 - 30 giờ mỗi tuần không phải là hiếm). Kể cả giờ dạy trong trường, ngoài trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy "liên kết" ở các địa phương, dạy tu, luyện thi… do đó ngay ở các đại học lớn, cũng rất ít nghiên cứu khoa học và nhiều người đã lâu không có thói quen cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ nhưng lại sản xuất đều đều cử nhân, Thạc sĩ, thậm chí cả tiến sĩ. Trình độ GS, PGS của ta nói chung khá thấp so với quốc tế, cả nước số GS đã được công nhận mới chiếm tỷ lệ chưa tới 0,1% số PGS chưa tới 5%, trong toàn bộ số giảng viên đã học. Nếu kể cả những người thực tế có năng lực nhưng chưa được công nhận GS, PGS do cách tuyển chọn chưa hợp lý, đội ngũ giảng viên đại học vẫn còn yếu kém về trình độ và số lượng mà tuổi tác lại khá cao đó là tình trạng không thể chấp nhận được cần có biện pháp cải thiện nhanh.
Thứ 5 là đổi mới các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên phổ thông. Cần nghiên cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm trọng điểm vì theo kinh nghiệm các nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm, còn giáo viên THCS và THPT trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về chuyên môn khoa học rồi mới bổ túc kiến thức và kỹ năng sư phạm. Do đó, phải thay đổi cách đào tạo ở các trường sư phạm, chú trọng nhiều hơn phần chuyên môn khoa học, đồng thời phải mở rộng đối tượng tuyển dụng giáo viên phổ thông từ cá cử nhân hay thạc sĩ sau một khóa bổ túc ngắn hạn về nghiệp vụ sư phạm. Các Đại học sư phạm nên dần dần chuyển thành Đại học đa ngành, trong đó có khoa sư phạm (giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ giảng dạy và khoa học sư phạm.
Thứ 6 là xây dựng "mới' một Đại học đa ngành hiện đại làm "hoa tiêu" cho cải cách Đại học sau này. Song song với những biện pháp cấp bách kể trên, cần bắt tay xây dựng ngay một đại học đa ngành thật hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế và sánh kịp với các đại học tiên tiến nhất trong khu vực, làm "hoa tiêu" cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa. Đại học cần xây dựng hoàn toàn "mới" đại học này nghĩa là không phải ghép chung lại một số đại học đã có sẵn (theo kinh nghiệm không thành công như đã làm tới nay) mà toàn bộ giảng viên và sinh viên tuyển vào đều là "mới". Lúc đầu không nhất thiết đủ hết mọi ngành và quy mô có thể hạn chế trong số mấy trăm sinh viên nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo đúng các chuẩn mực quốc tế về mọi mặt. Cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở học tập của sinh viên, trình độ giảng viên.
Thứ 7 là tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng đầu tư. Cần cải cách chế độ lương và phụ cấp, bảo đảm cho giảng viên đại học một mức thu nhập phù hợp và năng suất và trình độ từng người để họ có thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống quá nhiều, tạo mọi điều kiện cho họ có thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệ thế giới và khu vực.
KẾT LUẬN
Có thể nói trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu.
Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết các nước trên thế giới đều giương cao khẩu hiệu "giáo dục là quốc sách hàng đầu và dành nhiều tâm sức để xây dựng và phát triển giáo dục nhằm đào tạo cho xã hội lực lượng lao động có năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường.
Một nền giáo dục đại học chỉ được xem thành công khi nền giáo dục ấy đóng góp cho xã hội những cá nhân có đầy đủ trí và lực, đáp ứng được những nhu cầu về lao động trình độ cao và nghiên cứu khoa học nhằm góp ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể Vận dụng vào việc học và hành của sinh viên hiện nay.docx