Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kinh tế thị trường trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

 MỤC LỤC

CHƯƠNG I

Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. Những đặc điểm cơ bản

I/ Khái niệm CSHT và KTTT

1/ Cơ sở hạ tầng

 2/ Kiến trúc thượng tầng

II/ Mối quan hệ CSHT và KTTT

1/ CSHT quyết định KTTT

 2/ Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT

CHƯƠNG II

Mâu thuẫn giữa CSHT và KTTT trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở VN hiện nay

I/ Xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hoá ở VN

II/ Mâu thuẫn giữa CSHT và KTTT trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá

III/ Giải pháp tối ưu cho mâu thuẫn CSHT và KTTT

1/ Cơ sở hạ tầng

 2/ Kiến trúc thượng tầng

Kết luận.

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3740 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kinh tế thị trường trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các giai cấp bị trị. Chỉ đến CNXH mâu thuẫn đối kháng trong KTTT mới được xoá bỏ trong thời kỳ tiến lên Chủ nghĩa cộng sản những tàn dư tư tưởng của giai cấp bóc lột vẫn còn tồn tại dai dẳng trong KTTT. II/ Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT ta thấy CSHT có vai trò quyết định KTTT ở chỗ: 1/ CSHT quyết định KTTT - CSHT như thế nào sản sinh ra KTTT như thế ấy. - CSHT quyết định sự biến đổi của KTTT trong từng giai đoạn của lịch sử - CSHT quyết định sự thay đổi cơ cấu về chất KTTT Các nhà xã hội học trong triết học trước Mác cho rằng nhà nước trong pháp luật quyết định quan hệ kinh tế, ý thức,tư tưởng, quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Giai cấp thống trị CSHT thống trị KTTT , vì vậy KTTT là công cụ, phương tiện, cộng cụ quyền lực để bảo vệ QHSX thống trị. Mọi hoạt động, mọi biến đổi của KTTT đều do nguyên nhân kinh tế quyết định trực tiếp hay gián tiếp đến các bộ phận khác nhau của KTTT đều phản ánh sự vận động của cơ cấu kinh tế và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định cơ cấu kinh tế. Những biến đổi căn bản trong CSHT sẽ dẫn đến biến đổi căn bản trong KTTT khi CNXH xoá bỏ CSHT cũ thay thế bằng CSHT mới thì sự thống trị của giai cấp mới chế độ chính trị của xã hội thay đổi bộ máy nhà nước mới được thành lập thay thế cho bộ máy cũ. Nguyên nhân nhữngbiến đổi của CSHT và của KTTT xét cho cùng là do sự phát tiển của LLSX . Nhưng sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và sự biến dổi đó làm cho KTTT biến đổi. Xta-Lin viết “Thượng tầng không phản ánh tức thì và trực tiếp những thay đổi trình độ phát triển của LLSX mà chỉ phản ánh sau khi hạ tầng đã có những sự thay đổi khi sự phản ánh của những thay đổi trong sản xuất đã gây ra những thay đổi trong hạ tầng”. 2/ Sự tác động trở lạI của KTTT Đối với CSHT th - KTTT có vai trò bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT đã sinh ra nó, đấu tranh chống lại, xoá bỏ CSHT và KTTT cũ vừa mang tính tích cực và vừa mang tính chất tiêu cực - KTTT đối lập với chủ nghĩa duy vật kinh tế chủ nghĩa Mác-LêNin khẳng định: KTTT không phải là kết quả thụ động của CSHT mà trái lại sau khi hình thành KTTT có tác dụng mạnh mẽ trở lại với CSHT sinh ra nó, mặt khác Xta-Lin viết “Sau khi xuất hiện rồi KTTT trở thành lực lượng vô cùng lớn lao giúp đỡ một cách đắc lực cho hạ tầng hình thành và mạnh mễ lên, nó dùng đủ mọi cách để giúp đỡ chế độ mới, phá huỷ triệt để và tiêu diệt hạ tầng cũ những giai cấp cũ. Chương II Mâu thuẫn giữa CSHT và KTTT trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá và hiện đạI hoá ở VN hiện nay I/ Xu thế tất yếu của quá trình công nghiệp hoá ở VN - Mỗi hình thái xã hội là một hệ thống những quan hệ xã hội đặc thù có kết cấu phức tạp. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kiểu nhất định những quan hệ vật chất đó là những quan hệ giữa người với người trong sản xuất trao đổi và phân phối, phù hợp với kiểu quan hệ vật chất đó là một kiểu tinh thần nhất định,đó là những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật… - Những quan hệ tinh thần này được thể hiện thông qua những thể chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, toà án, các tổ chức xã hội khác. Sự liên hệ và tác dụng lẫn nhau giữa những quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần của xã hội được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù CSHT và KTTT và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau. Trong tác phẩm góp phần phê phán kinh tế chính trị học Các-Mác viết “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở đó thì có nhiều hình thái nhất định” - ở VN ngay từ đại hội Đảng lần thứ IV chúng ta đã nhận định “ Nước ta đang ở tronh quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN” cho nên việc phát triển kinh tế XHCN vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh là quan điểm quan trọng thể hiện sự phát triển mới về tư duy của Đảng ta trong lãnh đạo kinh tế xã hội (Văn đại hội đại biểu toàn quốc khoá VI ). Điều đó có nghĩa là việc xây dựng một CSHT vững chắc phát triển cùng với một KTTT ổn định phù hợp với quá trình phát triển của lịch sử là một tất yếu khách quan - Nước ta bước vào xây dựng CNXH trong hoàn cảnh hết sức khó khăn và phức tạp do điểm xuất phát thấp CSHT thiếu thốn, chính vì vậy việc định hướng xây dựng và phát triển kinh tế như thế nào phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo cũng như chính sách kinh tế hợp lý nhằm thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước của Đảng ta II/ Mâu thuẫn giữa CSHT Và KTTT trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đạI hoá Như chúng ta đã biết, mỗi xã hội có một CSHT nhất định, tính chất của mỗi CSHT là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. CSHT chính là sự tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội nhất định. Mác đã từng viết “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cơ sở thực tại trên đây xây dựng lên một KTTT pháp lý và chính trị. Và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có hình thái ý thức xã hội nhất định. Cũng với CSHT, KTTT là toàn bộ những hiện tượng được hình thành và phát triển trên CSHT nhất định, nó bao gồm những tư tưởng chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và những thể chế tương ứng ( Nhà nước, đảng phái, giáo hội ) mối KTTT xây dựng nên CSHT nhất định, do đó xã hội có giai cấp KTTT đều có giai cấp đều bảo vệ của những giai cấp nhất định. Các-Mác viết trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức “Nhờ có nhà nước mà tư tưởng thống trị mới thống trị được tất cả” chính nhờ vậy nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong KTTT - Trong chế độ ta tính ưu việt của KTTT và CSHT xã hội chủ nghĩa được thể hiện rât rõ, chúng ta biết rằng khác với tất cả các CSHT XHCN là sự thuần nhất và thống nhất, nó không có sự xung đột giữa các giai cấp các tập đoàn có lợi ích căn bản đối lập nhau, mọi sự bóc lột và nguồn gốc sinh ra bóc lột đều bị xoá bỏ - ở VN ngay từ đại hội đảng lần thứ VI chúng ta đã nhận định “Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”. Trong điều kiện đó vai trò của KTTT XHCN đặc biệt là nhà nước chuyên chính vô sản có vai trò hết sức to lớn trong việc tạo lập và phát triển CSHT XHCN cũng như toàn bộ sự chuyên chính vô sản phải được tăng cường để không ngừng phát huy tính tích cực chủ động trong việc sáng tạo xã hội mới “Song vì hoạt động là một nhiệm vụ tương đối mới mẻ và khó khăn đối với Nhà nước ta, cho nên trước hết và đặc biệt chú ý tăng cường hiệu lực của nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế. Đại hội IV Đảng cộng sản VN mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế thị trường trên CSHT đa dạng hoá hình thức sở hữu, xáo bỏ chế độ quan liêu bao cấp. - Nói đến CSHT và KTTT ta nghĩ ngay đến cơ cấu kinh tế quá trình đổi mới cơ cấu cũ của nước ta đã đặt được một số thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế đã đặt được những tiến bộ rõ rệt tong việc thực hiện mục tiêu của 3 chương trình kinh tế lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng xã hội. - Tình hình lương thực thực phẩm có chuyển biến tốt từ chỗ thếu ăn triền miên (2/1988) nước ta phải nhập 450.000 tấn gạo, đến nay theo tổng cục hải quan từ đầu năm 2001 đến nay mặt hàng gạo của VN đã được xuất khẩu tới 35 nước, so với cùng kỳ năm 2000 tiêu biểu là Ai Cập, Nam Phi, Senegal, Tanzania…Xuất khẩu 300.000 tấn đến thị trường châu á chiếm 47% thị phần xuất khẩu gạo VN, châu Phi 30%, Trung Đông 9%, Mỹ 7%…và mở thêm 10 thị trường suất khẩu gạo. ( Báo kinh tế ra ngày 6/10/2001) không những vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn vươn lên đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, nó đã góp phần quan trọng ổn định đời sống của nhân dân cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp phát triển sản xuất thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp. Xoá bỏ chế độ bao cấp bước đầu của cơ chế thị trường tự do lưu thông và điều hoà cung cầu lương thực, thực phẩm trên phạm vi cả nước. Phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn suy dinh dưỡng - Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả . (Theo báo kinh tế ra ngày 6/10/2001 mặt hàng cafê xuất khẩu ra thị trường thế giới 10.1994 tấn so với khối lượng sản xuất là13.1994 tấn). Tăng nhanh đàn gia súc gia cầm, phát triển kinh tế biển, đưa kinh tế rừng khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu mở rộng thị trường nông thôn, tăng thu nhập của công nhân. Đẩy mạnh việc kinh doanh, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội - Hàng hoá trên thị trường nhất là tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt được kế hoạch nhưng cũng đã tăng hơn trước và có tiến bộ rõ rệt về mẫu mã, chất lượng. Một số sản phẩm tư liệu sản xuất tăng khá các cơ sở sản xuất gắn chặt hơn nhu cầu trên thị trường phần bao cấp của nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương…giảm đáng kể. Đó là kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới nhiều chính sách về sản xuất và lưu thông hàng hoá. Những kết quả thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế,. Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chính phủ khẳng định với những nhà tài trợ quốc hội khoá X đã thông qua nghị quyết về việc sửu đổi, bổ xung một số điều về hiến pháp 1992 chấp nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựu trên chế độ sở hữu. - Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế đảm nhiệm các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu nhất là trong công nghiệp CSHT và tài chính tín dụng . Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tiếp cận thị trường, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ hoạt động có hiệu quả hơn trước các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp , mua bán thời kì đầu chuyển sang cơ chế mới tổ chúc qui mô, phương thức hoạt động , khôi phục và phát triển sản xuất kinh doanh. Đã xuất hiện hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới tuy chưa phổ biến . - Kinh tế cá thể tiểu thủ phát triển nhanh trong nông lâm ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế xã hội điển hình như dịch vụ tiêu dùng ngày 2/4/2002 đạt 3,3% GDP tăng10%so với cùng kì năm 2000 ( theo thời báo Tài Chính VN). - Kinh tế tư bản tư nhân trong trong nước bước đầu phát triển tập chung phần lớn vào lĩnh vực thương mại dịch vụ và kinh doanh bất động sản, đầu tư vào sản xuất còn ít,các loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu - Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên với tư bản nước ngoài đã bắt đầu đóng góp vào sự tăng trưởng kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản tư nhân trong nước hưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp. Kể từ năm 1986 Việt nam đã coi trọng sản xuất hành xuất khẩu, đưa việc sản xuất hàng xuất khẩu thành một trong 3 chương trình kinh tế quan trọng. Quý 4 năm 2001 xuất khẩu hàng hoá chiếm 40% tỉ trọng GDP cả nước . Ban hành luật đầu tư với nước ngoài ,với những qui địng rộng rãi như: giảm thời gian chờ dợi cấp phép vé máy bay,thẩm định ,thực hiện giảm giá cước viễn thông ,cước vận chuyển để đáp ứng với nhu cầu tình hình kinh tế.Trong các văn kiện của địa hội VII lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại đã được coi trọng hơn trước,đã xem việc đẩy mạnh xuất khẩu như một yếu tố quyết định trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhà nước đã nhanh tróng xác định các chính sách và luật pháp thích hợp với kinh tế thị trường. Chích sách tự do hoá giá cả chuyển sang hệ thống giá cả thị trường có sự điều tiết. Chính sách tiền tệ tài chính trước hết là chính sách chống lạm phát,chuyển lãi tức thành lãi xuất thị trường tỷ giá hối đoá thành tỷ giá thị trường. Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu tôn trọng và đảm bảo sở hữu tư nhân, khu vực kinh tế nhà nước về các vị trí đúng của nó, khuyến khích tư nhân phát triển không hạn chế về quyền. Thành lập các thị trường như thị trường chứng khoán… Chính sách đối ngoại bao gồm cả việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, xuất nhập khẩu các dịch vụ thu ngoại tệ , qui chế hoạt động các khu công nghiệp như khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên ,khu công nghiệp chế xuất Sài Đồng. Xây dựng và tăng cường bộ phận hoạch định chính sách luật pháp về hành pháp, giảm các bộ phận ra lệnh, một khi các luật pháp cơ bản đã được ban bố , thì mọi công dân VN sẽ hành động theo pháp luật chứ không chờ mệnh lệnh cấp trên. Các nhà kinh doanh sẽ hoạt động theo luật pháp và yêu cầu của thị trường. Điều mà chúng ta cần là phải có đủ các chuyên gia về luật pháp, các chuyên gia về luật pháp phải hoạt động công minh, đảm bảo xét sử kịp thời các vụ vi phạm pháp luật và hợp đồng kinh tế Qua những năm vừa qua, Đảng ta nhân dân ta đã lỗ lực rất lớn để vượt qua cơn khủng hoảng. Quyết tâm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội . Nên lần đầu tiên đã hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân cả nước về GDP hàng năm llà 8,2% (Trong khi kế hoạch chỉ dự kiến 5,5% - 6,5% ) thì mức tăng này ở Sóc Trăng là 18,28%, Bà Rịa – Vũng Tàu 16,4%, Hải Phòng 12,4%, Hà Nội 11,9%. Theo báo cáo trình bầy tại các đại hội Tỉnh và Thành phố trực thuộc trung ương, cả nước có khoảng 40% các tỉnh thành phố đặt mức tăng GDP hàng năm cao hơn mức tăng trung bình của cả nước. Phân nửa số tỉnh thành còn lại có mức xấp sỉ với mức tăng trung bình này. Một số tỉnh gặp nhiều khó khăn thường được gọi là tỉnh nghèo mức tăng trung bình hàng năm trong 5 năm qua cũng cao hơn nhiều so với 5 năm trước đó Tăng cường đồng bộ trên các lĩnh vực: Sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể tăng nhập khẩu và xuất khẩu, tăng đầu tư xây dựng cơ bản, hình thành các trọng điểm kinh tế lớn của các vùng, miền trong cả nước. Tăng các nguồn lực nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và thực hiện chính sách xã hội. Đời sống nhân dân đã cải thiện một bước khá rõ rệt… Tuy vậy không phải không có những yếu kém đặc biệt là nạn tham nhũng, buôn lậu…Cơ chế thị tường còn sơ khai, vai trò quản lý của nhà nước với nền kinh tế còn yếu đã tạo ra mảnh đất tốt cho tham nhũng hối lộ và bao tệ nạn khác hoành hành: Trong báo cáo chính trị của Đại hội VIII nêu rõ (Sự phân hoá giầu nghèo giữa các vùng , giữa thành thị với nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng lên nhất là những người nghèo, vùng nghèo, phần đông lại là những cơ sở của Cách mạng và Kháng chiến; những người có công với nước, với dân, những đối tượng chính sách xã hội. Sự doãng rộng ra về mức sống và khoảng cách giầu nghèo, một mặt cho thấy hiệu ứng của việc bước sang cơ chế mới, giã từ cơ chế bao cấp cũ vốn kìm hãm tính chủ động và sáng tạo: Nhờ năng động tài chí, biết làm ăn một bộ phận dân cư đã giầu lên nhanh chóng. Mặt khác nó cũng cho thấy sư điều tiết của nhà nước còn non kém, không kiểm soát được nạn tham nhũng, để một bộ phận không nhỏ nhanh chống giầu lên bằng những nguồn thu bất chính Việc buông lỏng lãnh đạo xây dựng quan điểm sản xuất mới, để cho hàng loạt HTX tan dã hoặc chỉ tồn tại trên danh nghĩa, để cho nhiều cơ sở quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài hoặc kém hiệu quả , bị tư thương lấn áp và có nơi có lúc làm chủ thị trường…cũng là nguyên nhân đẩy nhanh sự doãng rộng khoảng cách về mức sống giữa các vùng, các miền và các bộ phận dân cư III/ GiảI pháp tối ưu cho mâu thuẫn CSHT và KTTT Việc sử dụng phạm trù này như thế nào để phat huy được mặt tích cựu, hạn chế được mặt tiêu cựu của nó nhằm ổn định và phát triển kinh tế xã hội, vừa đảm bảo sự phát triển đó phù hợp với định hướng, đường lối của chúng ta là rất cấp bách. Đặc biệt việc phòng chống tham nhũng đã được nhà nước quan tâm thích đáng 1/ Cơ sở hạ tầng Việc phòng và chống tham nhũng đã được nhà nước quan tâm đích đáng: Xiết chặt kỷ cương phép nước, sử lý kịp thời đích đáng ngững kẻ tham nhũng: Thời gian qua đảng và nhà nước đã ban hành và hoàn thiện nhiều bộ luật và các văn bản dưới luật làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cựu trong xã hội.Tuy nhiên, để có thể chặn đứng tệ nạn này, nhà nước cần sớm ban hành và hoàn thiện các Bộ luật hành chính, luật chống tham nhũng, tiên cực và tệ nạn xã hội, luật công khai hoá tài sản, nhanh chóng cụ thể hoá luật ngân sách… Có biện pháp kiên quyết tách tất cả các tổ chức kinh doanh, trốn thuế, lậu thuế để thu lợi riêng cho đơn vị và cá nhân. Nhà nước đã ban hành bộ luật dân sự và bộ luật tố tụng dân sự. Đây là hai bộ luật cơ bản tạo ra cơ sở pháp lý cho việc sử lý tranh chấp dân sự Công bằng xã hội là một phạm trù chính trị- xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa cống hiến và hưởng thụ, thực hiện cơ chế sản xuất - kinh doanh - phân phối thông qua thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trên thực tế đã đảm bảo được công bằng xã hội một cách khả dĩ nhất và chúng đã tạo nên những động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh hơn. Bởi vậy, kiên trì thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển toàn bộ nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để đảm bảo ưu tiên phát triển với tốc độ cao, đồng thời giải quyết được sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ của các thành viên trong xã hội là một yêu cầu nhất quán trong thời gian tương đối lâu dài. Chúng ta phải biết sự phân hoá giầu nghèo hiện nay so với thời kì bình quân chủ nghĩa trong chế độ tập trung, quan liêu bao cấp là biểu hiện của việc công bằng xã hội đang được thiết lập lại chứ không phải làg\ công bằng xã hội đang bị vi phạm (Loại trừ những trường hợp làm ăn phi pháp, những trường hợp này cần phải trừng trị ) cho nên chúng ta cần xây dựng và thực hiện được những chính sách phát triển đúng đắn, thích hợp có tính đến yếu tố biện chứng giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội, có thể vừa thực hiện được mục tiêu hàng đầu cho phát triển kinh tế vừa thực hiện được những chương trình đảm bảo sự công bằng xã hội ngày càng tốt hơn Tóm lại, các biện pháp giải quyết công bằng xã hội và phát triển kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn biện chứng. Xong những biện pháp giải quyết công bằng xã hội quan trọng và có hiệu quả nhất, xét đến cùng, vẫn luôn luôn dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế nhất định. Mục tiêu của chúng ta là phải “ Làm cho người nghèo đủ ăn, người đủ ăn thì khá giầu, người khá giầu thì giầu thêm, người nào cũng biết chữ, người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước” Các chính sách kinh tế khác điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của các ngành các địa phuơng và các thành phần kinh tế, xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cư bản tài chính nhà nước theo hướng thúc đẩy khai thác tiềm năng thiên nhiên và của tầng lớp nhân dân; vừa tích tụ vốn ở các đơn vị kinh tế vừa đảm bảo nguồn vốn tập trung của nhà nước; vừa tạo điều kiện, vừa gây sự ép buộc, các đơn vị kinh tế tìm mọi biện pháp nâng cao hiêu quả quốc doanh, thực hiện phân phối hợp lý thu nhập quốc dân đáp ứng các nhu cầu chi cần thiết đi liền với nâng cao dẫn tỉ lệ tích luỹ thực hành tiết kiệm và đảm bảo công bằng xã hội góp phần tích cựu kìm chế, và đẩy lùi lam phát. Hệ thống nhân hàng vươn lên làm tốt chức năng là tập trung tiền tệ, tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế, huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trtong xã hội thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, góp phần từng bước ỏn định giá trị đồng tiền VN. Phân định rõ chức năng của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Kinh doanh, ngân sách và tín dụng. áp dụng hình thức Ngân hàng cổ phần thực hiện quản lý và giao dịch ngoại tệ qua Ngân hàng xây dựng thị trường hối đoái hợp pháp. Cho Ngân hàng Nhà nước vào hoạt động theo luật pháp của VN. Nói chung phát huy tiềm năng to lớn của nền kinh tế nhiều thành phần phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch chính sách và các công cụ khác. Đặc biệt để xây dựng kết cấu hạ tầng ta phả khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có, khôi phục nâng cấp và mở thêm một số tuyến giao thông trọng yếu kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ mở thêm đến các vùng sâu, vùng xa, cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải tạo nâng cấp một số cảng sông, cảng biển sân bay xây dựng cảng biển nước. Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mạng thông tin liên lạc Quốc gia, mở liên lạc điện thoại đến hầu hết các xã. 2/ Kiến trúc thượng tầng Chúng ta đã thấy rằng thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng của công cuộc đổi mới 10 năm qua không chỉ là những định lượng vật chất có thể cân đo đong đếm được. Chúng ta có cơ sở để khẳng định mạnh mẽ cái mà Léptônxtôi trước đây gọi là “Tinh thần xã hội” còn Mác và Ang ghen thì gọi là “Sự thức tỉnh của hàng triệu quần chúng lao động” Hay “Sự thống nhất tư tưởng giữa Đảng lãnh đạo với giai cấp và dân tộc” Quả thực, trước và sau đại hội toàn quôc lần thứ VIII của Đảng chúng ta được chứng kiến một sự thống nhất rất cao về mặt tư tưởng – tinh thần xã hội. Đúng như báo cáo chính trị của trung ương đã nhận định qua thực tiễn đổi mới, lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước được nâng cao lên, nhân dân ta càng gắn bó hơn với Đảng và Nhà nước mình. KTTT chính trị, pháp lý ở nước ta không phải như ở châu âu là sản phẩm của cuộc cách mạng tư sản kiểu cổ điển là kết quả phát triển tự phát của nền kinh tế thi trường. KTTT ở nước ta là sản phẩm của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN lật đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước kia và nhà nước CHXHCNVN hiện nay là Nhà nước do dân, vì dân. Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, được khuyến khích phát triển trong khuôn khổ của chế độ pháp luật và sự quản lý của nhà nước XHCNVN. Chính công nhân và nhân dân lao động nước ta chủ động phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa để phục vụ mình. Chúng ta đã có một hệ thống chính trị vững chắc và các công cụ chuyên chính cần thiết. Nhưng điều quan trọng hơn là để có một hệ thống pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn tạo nên khung pháp lý rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển, đáp ứng được các đòi hỏi của các thành phần kinh doanh khác nhau. Mặt khác, các cơ sở kinh tế quan trọng nhất của nhà nước như đường sắt, hàng không, dầu khí, các hệ thống Ngân hàng Bưu chính viễn thông…Đều do nhà nước ta nắm. Như vậy, chúng ta có đủ sức mạnh kinh tế để đứng vững làm chủ đất nước. D o đó, sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần với sự xuất hiện của tầng lớp xã hội mới không làm lung lay mà ngược lại còn là tiền đề không thể thiếu để củng cố KTTT chính trị, pháp lý hiện đại. Yêu cầu thực sự của nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở nước ta là sự ổn định về chính trị và pháp luật chứ không phải là đảo lộn, xáo trộn. Tất nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, chế độ hành chính cần được cả tiến cho thích hợp mục tiêu là dân chủ nhiều hơn và thực chất hơn, chủ quyền của đất nước và lợi ích của nhân dân lao động được bảo vệ tốt hơn. Cương lĩnh xây dựng CNXH đã xác định phương hướng đầu tiên cũng có thể coi là điều kiện quan trọng hàng đầu của định hướng XHCN là “Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân” Kết luận Ngày nay nước ta đã và đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH . Đặc điểm cơ bản nhất của nước ta từ một nền kinh tế phổ biến là nền sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN . Đó là một thời kỳ cải tiến Cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện của CSHT và KTTT của xã hội. Xây dựng CNXH ở nước ta chính là xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, chế độ đó bao gồm cả CSHT và KTTT của xã hội trong đó nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân là làm chủ tập thể về mọi mặt : Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Để làm được việc đó, cần có một quá trình đấu tranh Cách mạng cải tạo XHCN và xây dựng CNXH mà hệ thống cơ sở vật chất trước hết là nhà nước XHCN có vai trò cực kỳ quan trọng , việc tăng cường và hoàn thiện nhà nước XHCN có tác động hết sức to lớn các mặt cải tạo xây dựng kinh tế tổ chức và quản lý xã hội. Chỉ có thông qua nhà nước XHCN Đảng mới thực hiện được quyền làm chủ tập thể của mình,. Mới phát huy được tính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21096.doc
Tài liệu liên quan