MỤC LỤC:
TT Trang
I Mở đầu 1
II Nội dung 3
Chương 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật 3
1.1 Các định nghĩa 3
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế 6
Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 6
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ 6
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 8
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế 8
2.4 Những lợi ích và hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế 11
2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam 12
2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập 12
2.5.2 Quá trình hội nhập ở Việt Nam 14
2.5.3 Những lợi ích và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập 15
2.5.4 Một số ý kiến và giải pháp cho quá trình hội nhập ở Việt Nam 16
III. Kết luận
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bệnh tật ....
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.... Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật, hiện tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả của sự vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. Từ nội dung của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi ngiên cứu phải xem xét sự vật, phải xem xét tất cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng không được đặt các mối quan hệ có vị trí vai trò như nhau. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về sự vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động thực tiễn.
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới không thể tự mình xây dựng được một nền kịnh tế phát triển bất kể nước ấy giầu hay nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới là một vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường".
Chương 2:
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện hiện nay đọc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Do vậy độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: trước hết và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất có thể được. Có thể có một nền kinh tế không phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự đảm bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các mối quan hệ giữa nước đó với các nước trên thế giới phải được xem xét đánh giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước không? Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát trển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay mọi nền kinh tế ngày càng có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các nước khác. Nếu sự ràng buộc đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì đó là một điều nên làm. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày càng mở rộng, giao lưu với các nước khác; kim ngạch xuất khẩu của ta năm 1999 chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Đặc trưng thứ hai của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này được thể hiện ở các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất lượng, giá thành sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia có giá thành cao, chất lượng lại thấp thì nó sẽ khó tiêu thụ và kết cục là gây suy thoái nền kinh tế. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Còn một nền kinh tế làm ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp thì có thể chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế tạo ra thu nhập lớn. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao. Đặc trưng thứ ba của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là khả năng ứng phó có hiệu qủa với những chấn động chính trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng hoảng…
Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc chiến tranh ở bên ngoài và tránh để xảy ra xung đột và chiến tranh ở trong nước. Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn sẽ có sức chịu đựng lớn so với nền kinh tế lạc hậu. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế thì sẽ có nhiều khả năng kết sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn.
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Các nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế nói cung và WTO nêu ra là không phân biệt đối xử, tiếp cận thị trưởng, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Nội dung của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tự do buôn bán, phát triển.
Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua doanh nhâ, hiện diện thể nhân,…
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọn đến khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Độc lập tự chủ vè kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc vào bên ngoài về đường lối, chính sách phát triển kinh tế vào những điều kiện kinh tế chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương, đa phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế - tài chính, cũng như trước sự bao vây, cô lập từ bên ngoài vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết, không bị sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp. Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu qủa trên trường quốc tế. Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự cung, tự cấp đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chứng minh là không phù hợp với xu thế của thời đại, và làm cho đất nước ngày càng tụt hậu xa hơn. Đến tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội và điều đó cuối cùng sẽ gây cho quốc gia đó khó giữ vững được con đường và mô hình phát triển đã lựa chọn. Trong vài chục năm gần đây, tình hình thế giới cũng có rất nhiều biến đổi quan trọng theo các hướng chủ yếu sau đây: một là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, xu thế này càng ngày càng trở thành xu thế chính thay thế cho sự đối đầu giữa các siêu cường, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập, các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị lên án khắp nơi. Đây chính là điều kiện quan trọng giúp cho các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế. Mô hình kinh tế phát triển trong xu thế hoà bình đang thay thế cho mô hình kinh tế trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh. Hai là xu thế phát triển công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Trong những thập niên vừa qua sự phát triển của công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế vô cùng lớn. Các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các hàng hoá vật chất, kể cả các ngành công nghiệp nặng đang ngày càng kém hiệu quả mất dần vai trò quan trọng của chúng với phát triển kinh tế. Trên thực tế trogn mấy năm gần đây các sản phẩm đã liên tục bị giảm giá, đã giảm tới trên 30% giá do vậy những ngành này đang gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó các ngành kinh tế tri thức lại phát triển với tốc độ cao và đạt nhiều hiệu qủa. Trong điều kiện hiện nay, các lợi thế về tài nguyên, nguồn vốn, lao động… ngày càng giảm và lợi thế về tri thức và kỹ năng ngày càng
tăng. ở Mỹ tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất điện tử - tin học làm tăng trưởng kinh tế lên tới 45% trong 3 năm qua còn mức đóng góp của ngành xây dựng và xe hơn vốn là ngành trụ cột của kinh tế Mỹ lại giảm chỉ còn 14% và 4%. Lợi nhuận của hãng Intel, Microsoft đạt mức 24% doanh thu kéo dài trong khi các ngành công nghiệp truyền thống chỉ đạt ở mức trên 10%.
Xu hướng thứ ba là xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh chóng. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển và những đặc trưng chủ yếu trên mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là căn cứ để phát triển các ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh cao. Đương nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự phụ thuộc này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính sách phát triển,… ví dụ như trong Liên minh Châu Âu, hiện đã có đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm duy trì một mức thâm hụt ngân sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế này các quốc gia tuy vẫn có quyền tự chủ, quyền tự chọn các ngành kinh tế có lợi cho mình. Thực tế cho thấy ngay các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật phải nhập 100% dầu mỏ để có ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành công nghiệp chế tạo,… Nếu có chiến tranh xảy ra, các hoạt động nhập khẩu này chỉ bị ngừng trệ một thời gian ngắn thôi thì các ngành công nghiệp sẽ hoàn toàn bị tê liệt và nền kinh tế Nhật khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này, nước Nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật lại xuất khẩu ô tô, hàng điện tử và những loại hàng chất lượng cao khác buộc các quốc gia khác phải lệ thuộc vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau làm cho kinh tế Nhật có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 70.
Song cũng cần phải nói rằng trong qúa trình hội nhập kinh tế cần phải tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước. Đây là một vấn đề đã xảy ra với một số nước, nhất là các nước kém phát triển. Do trình độ khoa học, nền sản xuất nước này còn chậm phát triển nên đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài kể cả về kinh tế lẫn chính trị.
Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải phát huy tính độc lập tự chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế, phải lấy nội lực của nền kinh tế làm yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, còn những yếu tố bên ngoài chỉ là quan trọng.
2.4 Những lợi ích, hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế:
Như chúng ta đã phân tích hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, nó có những tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hội nhập kinh tế thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Nó làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới: ngày nay tổng sản phẩn thể giới ước tính khoảng 30.000 tỷ úD gấp khoảng 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào những năm trước đây. Theo đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu cũng có những thay đổi cơ bản. Nếu những năm 60, nông lâm thủy sản chiếm 10,4% , công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì cho tới nay cơ cấu tương ứng là 4,4%; 21,4% và 62,4%. Bên cạnh đó sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng sản xuất. Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệt hống góp phần tác động có hiệu quả vào phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại; làm làm hoặc huỷ bỏ các hàng rào thương mại làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng hơn do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó thúc đẩy phân công lao động quốc tế, theo hướng chuyên môn hoá làm cho nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng có hiệu quả hơn.
Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro trong cuộc cạnh tranh quốc tế.
Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết qủa như nhau đối với các nước lớn. Nhìn chung các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế họ đã phát triển cao, khả năng cạnh tranh lớn. Mặt khác, hội nhập kinh tế làm gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ. Nó củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Bên cạnh đó ta cũng không thể không nói đến mặt trái của việc hội nhập kinh tế gây ra. Song song với việc hội nhập kinh tế thì khoảng cách giầu nghèo giữa các nước ngày càng tăng. Các mối lợi thu được từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đều và không công bằng. Các quốc gia phát triển có lợi thế thường thu lợi nhiều trong kinh tế. Sự bất bình đẳng ngày càng tăng. Dân số ở một số nơi còn có mức sống thấp hơn trước. Toàn thế giới hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo. Các nước phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi đó các nước nghèo nhất với 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP thế giới. Mặt khác, hội nhập kinh tế còn tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập chủ quyền quốc gia, làm xói mòn quyền lực Nhà nước, dân tộc. Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị giảm dần,… Hội nhập còn làm cho nhiều hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội, môi trường đến an toàn chính trị. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á 1997 - 1998 đã ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Lạm phát và thất nghiệp gia tăng, nền sản xuất phải cơ cấu lại, tệ nạn xã hội ngày càng tràn lan: nghiện hút, mại dâm… Tuy trong quá trình hội nhập kinh tế ta đã tiếp thu được nhiều tinh hoa văn hoá trên thế giới song cũng chính trong quá trình thâm nhập văn hoá ngày càng làm cho những giá trị văn hoá riêng, truyền thống của mỗi nước bị xói mòn, huỷ hoại, bởi vậy vấn đề cần đặt ra là hội nhập nhưng không để hoà tan, không để đánh mất đi bản sắc văn hoá dân tộc.
Tuy cũng có nhiều hạn chế song ta cũng cần phải khẳng định rằng trong quá trình hội nhập kinh tế thì thành tựu là chủ yếu, mặt hạn chế chỉ là một phần nhỏ.
2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập:
Việt Nam ta hiện nay đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã và đang tham gia các tổ chức, các hiệp hội trên thế giới. Chúng ta đã đề ra quan điểm: “Việt Nam không những là bạn mà còn là đối tác của tất cả các nước trên thế giới”. Quan điểm đó xuất phát từ những thành tựu mà nước ta đạt được trong những năm gần đây đồng thời cũng từ những điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của nước ta. Nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thành công cho việc hội nhập kinh tế ở nước ta đó là giữ vững và phát huy tinh thần độc lập tự chủ. Đảng ta quan niệm độc lập tự chủ không phải là biệt lập, không phải là đóng kín. Trong hoạt động đối ngoại cần phải có tư duy độc lập, biện chứng biết tiếp thu kinh nghiệm của các dân tộc, ứng dụng phù hợp với điều kiện đặc thù của đất nước và tự quyết định chủ trương, hành động của mình. Chính sự đánh giá, dự báo chính xác chiều hướng phát triển của thế giới để có chính sách kịp thời đã góp phần làm nên thắng lợi của công tác đối ngoại. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ với tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực, chúng ta cần phải giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc thì mới có thể vượt qua thử thách, giành lấy thời cơ, tranh thủ mức cao nhất mặt tích cực của hội nhập kinh tế, tạo điều kiện đưa đất nước tiến kịp với sự phát triển của khu vực và thế giới. Do vậy độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá. Nên Đại hội IX của Đảng không những vẫn tiếp tục xác định Việt Nam là bạn mà còn bổ sung Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế và chủ động hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ chủ quyền dân tộc, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực trong hoạt động đối ngoại Việt Nam sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, thiết lập quan hệ bình thường với các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, vì sự nghiệp phát triển của mỗi nước. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại với 168 nước trên thế giới, quan hệ với gần 500 tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong đó có 380 tổ chức có dự án hoạt động ở Việt Nam. Đảng và nhà nước ta đã đề ra một số quan điểm, đường lối trong quá trình hội nhập :
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý hai mặt của hội nhập, tuỳ theo đối tượng, vừa đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó Đảng và Nhà nước ta đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Kết hợp chặt chẽ quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” đối với nước ta.
Từ mục tiêu và quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là :
Phải tiến hành rộng rãi công tác tư tương, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về Hội nhập kinh tế quốc tế.
Phải căn cứ vào nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập mà một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có kết quả.
2.5.2. Các bước tham gia hội nhập của Việt Nam :
Từ ngày 25 tháng 7 năm 1995, ta đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và từ ngày 01 tháng 01 năm 1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên của ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN (AFTA/CEPT). Tham gia vào ASEAN, ta đã trở thành thành viên của một tổ chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km2 với dân số khoảng 500 triệu người với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 tỷ USD và tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỷ USD. Bằng việc tham gia vào AFTA/CEPT, Việt Nam sẽ phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ các quy định, cam kết cơ bản và bắt buộc của Hiệp định nhưng vẫn phải tìm những cách vận dụng phù hợp các quy định có tính linh hoạt của Hiệp định để vừa bảo hộ một cách hợp lý, đồng thời nâng dần khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh của các ngành sản xuất tỏng nước nhằm giảm tối đa những bất lợi của ta khi thực hiện các bước tham gia vào AFTA/CEPT.
Ngày 15 tháng 6 năm 1996, ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11 năm 1998 đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế – kỹ thậut theo các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện, công khai và không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị, tuy được quan tâm nhưng thường được bàn một cách không chính thức.
2.5.3. Những kết quả đạt được :
Những kết quả của công cuộc đổi mới đạt được tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T094.doc