Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng mối quan hệ đó trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU 2

II. NỘI DUNG 3

1.Cơ sở lý luận của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuât. 3

2. Cơ sở thực tiễn việc vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. 6

3. Định hướng và các giải pháp. 12

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2022 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng mối quan hệ đó trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi hình thái kinh tế xã hội được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất riêng đóng vai trò quyết định mọi mặt của đời sống xã hội. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập nhưng thống nhất trong một phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, yếu tố người lao động đóng vai trò là chủ thể tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kĩ năng lao động của con người ngày càng được nâng cao, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người tạo ra là “ sức mạnh tri thức đã được vật thể hóa” nó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện, làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội ). Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt : quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quy định các quan hệ khác. Quan hệ sở hữu do con người tạo ra nhưng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất, nó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy quá trình sản xuất. Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động tuy do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý chi phối, nhưng nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người,tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất và do đó co thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển. ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, không có lực lượng sản xuất nào lại không gắn bó với những quan hệ sản xuất nhất định. Nếu sản xuất với tư cách là mối liên hệ kỹ thuật giữa con người với tự nhiên chỉ được thực hiện thông qua các quan hệ kinh tế xã hội, giữa người với người thì ngược lại, những mối quan hệ kinh tế xã hội đó cũng chỉ tồn tại được là nhờ có quan hệ giữa con người với tự nhiên trong xã hội. Đây không phải là những mối liên hệ giản đơn, bất biến, không mâu thuẫn mà là những mối quan hệ biện chứng phức tạp và không ngừng phát triển. Như vậy, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng. Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì nó mang tính chất cá nhân thể hiện ở chỗ, chỉ một người có thể sử dụng được rất nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Khi công cụ cơ khí ra đời, trình độ sản xuất công nghiệp thì một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ lao động, hoặc một bộ phận, chức năng của công cụ lao động ấy. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia, sản phẩm làm ra là thành quả của nhiều người. ở đây, lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hóa và tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức xã hội của sản xuất, bao giờ cũng thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định trình độ của quan hệ sản xuất. Chúng tác động lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, biểu hiện trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Trong mối liên hệ này,quan hệ sản xuất khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển.ở đâu, lúc nào quan hệ sản xuất không còn tác dụng tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển thì lúc đó quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây được xem là một nguyên lý rất cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và đã được toàn bộ sự phát triển của lịch sử loài người chứng minh là đúng. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất,trước hết là công cụ lao động.Chính sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. ở trạng thái đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển và tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “ xiềng xích “, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Điều này cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. Tuy vậy, khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp, quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi nào quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó phát huy tính tích cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mỗi phương thức sản xuất khác nhau và mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất khi nào nó sản sinh ra giai cấp, mà vì lợi ích của mình, các giai cấp ấy sử dụng hết khả năng kinh tế, kỹ thuật và tài năng tổ chức của mình để phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Ngược lại, quan hệ có thể là hình thức trói buộc sự phát triển khi nó không còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Như vậy, quan hệ sản xuất có thể tác động theo hai hướng : hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa chúng lại không hề đơn giản, trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội. Cơ sở thực tiễn việc vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. Vận dụng những tư tưởng và quan điểm nói trên vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta đã đề ra đường lối kết hợp cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất nhằm tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhờ đó mà sẽ thúc đẩy nhanh tiến trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. ở mỗi giai đoạn lịch sử, không có lực lượng sản xuất nào lại không gắn bó với những quan hệ sản xuất nhất định. Nếu sản xuất với tư cách là mối liên hệ kỹ thuật giữa con người với tự nhiên chỉ được thực hiện thông qua các quan hệ kinh tế - xã hội giữa người và người thì ngược lại, những mối quan hệ kinh tế -xã hội đó cũng chỉ tồn tại được là nhờ có quan hệ giữa con người với tự nhiên trong xã hội. Đây không phải là những mối quan hệ giản đơn, bất biến, không mâu thuẫn mà là những mối quan hệ biện chứng phức tạp và không ngừng phát triển. Quan hệ sản xuất với tính cách là hình thức xã hội của sản xuất, bao giờ cũng thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định trình độ của quan hệ sản xuất. Hai mặt quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, biểu hiện trong quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Trong mối quan hệ biện chứng này, quan hệ sản xuất khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng san xuất thì tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sự phù hợp của hình thức và nội dung. ở đâu, lúc nào quan hệ sản xuất không còn tác dụng tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển thì lúc đó quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là một nguyên lý được xem là rất cơ bản của chủ nghĩa Mac- LêNin đã được toàn bộ sự phát triển của lịch sử loài người chứng minh là đúng. Đảng và nhà nước luôn luôn nhận thức đúng vị trí của quy luật và đã thể chế hoá nó vào đường lối sản xuất. Vận dụng những tư tưởng và quan điểm nói trên, Đảng ta đã đề ra đường lối kết hợp cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất, nghĩa là cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhằm mục đích tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Theo quan điểm của Đảng: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vao trò chủ đạo; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Việc hình thành đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ ở Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta đã khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ. Song, chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hoá trên cơ sở một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, thô sơ về mọi mặt trong đó sản sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Công nghiệp hoá đòi hỏi nông nghiệp phải cung cấp một khối lượng lớn lương thực và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhưng với nền kinh tế tiểu nông, sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Thực tế chỉ ra rằng, ngày nay để nước ta tiến hành công nghiệp hoá XHCN thì nền kinh tế không thể duy trì quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà phải cải tạo quan hệ đó, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở kinh tế xã hội quan trọng cho quá trình công nghiệp hoá Xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ ở Việt Nam. Nền kinh tế cũ với cơ chế quản lí bao cấp, tập trung đã kìm hãm năng lực sáng tạo và tính năng động của các chủ thể trong sản xuất kinh doanh. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường thay cho nền kinh tế quản lí theo cơ chế bao cấp tập trung là sự thay thế tất yếu, là sự thay đổi quan hệ sản xuất cũ để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Xây dựng chế độ XHCN về kinh tế trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhằm phát triển hơn nữa lực lượng sản xuất. Chủ trương của Đảng là xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, mở đường đưa các thành phần kinh tế khác chiếm lĩnh ưu thế của nền kinh tế quốc dân. Khi chuyển tư liệu sản xuất từ hình thức sở hữu tư nhân sang hình thức sở hữu ( cộng sản ), quan hệ sản xuất đã giải quyết được những vấn đề về hình thức sử dụng, phương thức tồn tại của tư liệu sản xuất trong cơ cấu kinh tế. Việc lựa chọn hình thức kinh tế có tính quyết định tới việc hình thành các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ là phổ biến tiến lên XHCN, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đã có những yếu tố khách quan làm cơ sở cho sự phát triển tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ ở Việt Nam. Thứ nhất: Trình độ chủ yếu của lực lượng sản xuất ở nước ta là thủ công và tiểu thủ công nghiệp. Chính điều này đã làm cho quá trình lao động của họ dần tách rời nhau và tách rời khỏi thành quả lao động của họ. Thứ hai: Những người lao động thủ công tham gia vào quá trình sản xuất phân tán trên địa bàn rộng, nền sản xuất nhỏ và phân tán nên khó tổ chức và quản lí sản xuất được tốt. Thứ ba: Cở sở vật chất của nước ta còn quá nghèo nàn lạc hậu so với sự phát triền chung của thế giới, phương pháp lao động thủ công và dựa trên kinh nghiệm là chủ yếu trong khi đó các nước đã áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất từ rất lâu. Chính vì vậy tính xã hội hoá trong lao động chưa cao. Thứ tư: Trình độ của lực lượng sản xuất còn chênh lệch nhau quá nhiều giữa thành thị và nông thôn, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa đồng bằng và miền núi. Đó chính là những trở ngại lớn cho Việt Nam trong bước chuyển tiếp từ một hình thái kinh tế - xã hội kém phát triển sang một hình thái mới hiện đại hơn phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội. Chính lúc đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra bước ngoặt phát triển của loài người, mở ra một nền văn minh mới, tác động sâu sắc đối với cuộc sống của các tộc người trên thế giới, tạo cho các nước đang phát triển và chậm phát triển trong đó có Việt Nam thời cơ mới nhưng cũng không ít thách thức trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. Để vựợt qua những chướng ngại vật mang tính toàn cầu đó, Việt Nam đã chủ động và mạnh dạn thay đổi hẳn đường lối kinh tế của mình: từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường và một trong những yếu tố quyết định tới thay đổi đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Tính chất quốc tế hoá của lực lượng sản xuất đã tạo nên xu thế mới trong quan hệ giữa các quốc gia, các dân tộc, làm thức tỉnh các dân tộc đi vào con đường phát triển tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất của Việt Nam đã hoà nhập cùng với xu thế chung của lực lượng sản xuất trên toàn thế giới. Đảng và nhà nước đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức đúng hơn và có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan trọng là công cuộc xây dựng cơ cấu kinh tê mới, về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường đầu tiên khi mới phát triển, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế bao cấp lạc hậu, lỗi thời và quyết định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấtp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội, chủ quan xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuât. Hình thức kinh tế nhiều thành phần góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã đúng trong những thay đổi nền kinh tế Việt Nam. Về mục đích : xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nhất là trong những chặng đầu của thời kì quá độ, lực lượng sản xuất còn yếu kém cần được củng cố, tạo cơ sở xây dựng thành công trên nền tảng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội. Dùng cơ chế thị trường để khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá Chủ nghĩa xã hội nhằm tạo tiền đề vững chắc về kinh tế cho sự phát ra đời của phưong thức sản xuất chủ nghĩa xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện địa gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù họp trên cả 3 mặt: Sở hữu về tư liệu sản xuất, quản lí và tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm . Về chế độ sở hữu: Là chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bứoc được xác lập cà sẽ chiếm hữu ưu thế tuyệt đối khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Về chế độ phân phối : Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phân phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh, góp phần đẩy mạnh phân công lao động xã hội, hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng xã hội XHCN, một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các hình thức sở hữu có thể đan xen, hỗn hợp với nhau trên cơ sở 2 hình thức sở hữu cơ bản từ đó hình thành nên nhiều thành phần kinh tế: Tư nhân, quốc doanh, hợp doanh, liên doanh, doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngoài...... Như đã nói ở trên, sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là yếu tố hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định tới chế độ phân phối và chế độ quản lí. Đó cũng là lí do vì sao muốn xoá bỏ sự bóc lột, bất công thì phải xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong thực tế, khoa học kĩ thuật đã được nước ta áp dụng tối đa để trở thành lực lượng sản xuất quan trọng. Nếu như trước những năm giải phóng, nền kinh tế nước ta chủ yếu là dựa vào nông nghiệp và một số nghề thủ công với năng suất rất thấp, thậm chí còn không đủ để phục vụ nhu cầu trong nước thì đến năm 1986, với khoa học và kĩ thuật, công nghiệp hoá nông nghiệp ( như sử dụng máy móc thay sức lao động của người, sử dụng các loại giống cây trồng tốt cho năng suất cao và thích nghi được với khí hậu,môi trường của Việt Nam....) thì sản lượng đã tăng rất nhanh vừa thoả mãn nhu cầu trong nước vừa để xuất khẩu. Đảng và nhà nước cũng đã định hướng rõ muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng cho ngành giáo dục để nâng cao nguồn nhân , đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế trí thức. Tuy chủ trương và chính sách là công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhưng Đảng và nhà nước vần khẳng định ngành Nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, tạo tiền đề cho công nghiệp phát triển. Bởi bản chất nước ta là một nước nông nghiệp với những điều kiện tự nhiên phong phú để phát triển ngành này. Mặc dù chúng ta cũng có những điều kiện tốt để phát triển công nghiệp nhưng với trình độ lực lượng sản xuất như hiện nay thì không thể nhanh chóng xây dựng một nền công nghiệp vững chắc, có sức cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới. Đồng thời cơ sở hạ tầng cũng chưa cho phép nước ta phát triển ngành công nghiệp. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế tự do làm ăn, phát triển nhưng không được tách rời ra khỏi sự quản lí của nhà nước. Nhà nước bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lí của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần tự nó đã chứa đựng những mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng Chủ nghĩa tư bản.Thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất xã hội chủ nghĩa nhưng chưa thích nghi được với cơ chế thị trường, làm ăn kém hiệu quả nên ở đây diễn ra cuộc đấu tranh định hướng gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và quản lí kinh tế của Nhà nước giữ vai trò quyết định. Việc vận dụng các quan điểm của triết học trong xây dựng và quản lí kinh tế có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc. Định hướng và các giải pháp. Lý luận cũng như thực tiễn gần 18 năm đổi mới đã chứng minh sức sống và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các thành phần kinh tế ấy không tồn tại biệt lập với nhau mà bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ nhau, cạnh tranh với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Song để khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiếp tục thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế, phát huy nguồn lực xây dựng nền kinh tế quốc dân vững mạnh trước hết tập trung tháo giỡ những vướng mắc chính sau: Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các chủ thể các thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng, lành mạnh cho các thành phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ nghĩa… Từ đó ngại ngùng, không dám cho các thành phần kinh tế phát triển với mọ năng lực của nó. Thực tế chúng ta có Đảng vững mạnh, có Nhà nước với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt chẽ, ý thức độc lập tự chủ của nhân dân rất cao nên không dễ gì chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội khiến ta phải băn khoăn, lo ngại không dám chấp nhận nó. Phải coi đây là hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ mô với các thành phần kinh tế bằng pháp luật, xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự do phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương pháp quản lý của Nhà nước sao cho đúng, hiệu quả, thực sự “chặt” mà không gò ép, cứng nhắc, “ thoáng” mà không buông. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế “thoáng” song vẫn giữ được độc lập tự chủ của đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp phát triển nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng tâm trọng điểm như một số nước đã làm. Thực hiện công khai, công bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản lý, thuế, tài chính… đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế “xin- cho”,ngăn chặn hữu hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc phục mọi biểu hiện đặc quyền lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ… trong các khâu của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường. Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phận kinh tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng cường khả năng lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để đảm bảo sản xuất kinh doanh đúng định hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận thị trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tăng cướng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học- công nghệ và kinh nghiệp quản lý tiến bộ của thế giới. Coi trọng bảo vệ môi trường sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện, ngăn chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thấp cho sản xuất kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế, sản xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất,làm hàng giả, gian lận trong sản xuất, kinh doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động về kinh tế- xã hội của đât nước. III. Kết luận và kiến nghị. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội loài người. Quy luật này tác động ở mọi lúc mọi nơi nhưng tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể mà biểu hiện của nó có thể khác nhau song bản chất của quy luật thì không thay đổi. Thực tiễn xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã chứng minh rằng lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất bị lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là một trong những cơ sở lí luận quan trọng nhất tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12608.doc
Tài liệu liên quan