Theo Lênin, con đường củng cố khối liên minh công - nông phải dựa trên cơ sở tính nguyên tắc là: điểm xuất phát vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Điều quy định bản chất của khối liên minh công - nông, xu hướng phát triển và mục tiêu của nó là sự cần thiết phải củng cố và giành thắng lợi cho quan hệ xã hội chủ nghĩa ở các thành thị và nông thôn, là sự cần thiết củng cố chuyên chính vô sản. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể vạch ra triển vọng XHCN cho việc củng cố khối liên minh này, mới là người đại diện cho lợi ích của hai giai cấp anh em.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2843 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong các tác phẩm của Lênin thời kỳ NEP và ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hổ trao đổi ở địa phương); sử dụng quan hệ trao đổi hàng hoá - tiền tệ; sử dụng hình thức tô nhượng; thay đổi điều lệ hợp tác xã, mở rộng quyền hạn của nó như một tổ chức xã hội độc lập; có chính sách khuyến khích đối với các chuyên gia tư sản; củng cố khối liên minh công nông...
I. Quan niệm của Lênin về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong các tác phẩm thời kỳ NEP
Giành được chính quyền, đối với giai cấp vô sản cách mạng đó chưa phải là mục tiêu cuối cùng, là kết thúc cuộc cách mạng mà thực ra nó chỉ mới bắt đầu cho một sự nghiệp lâu dài với những khó khăn, phức tạp để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
"Trong cuộc đấu tranh của chúng ta có hai mặt của một vấn đề; một là nhiệm vụ phá huỷ di sản của chế độ tư bản, đập tan âm mưu muốn bóp chết chính quyền Xô viết, âm mưu toàn thể giai cấp tư sản cứ lặp đi lặp lại, cho đến nay chúng ta phải tập trung chú ý nhiều nhất vào nhiệm vụ đó, nó cản trở chúng ta chuyển sang nhiệm vụ thứ hai là nhiệm vụ xây dựng" (Lênin, toàn tập, tập 4, tr.482).
Như vậy, trong bước chuyển sang tình hình, nhiệm vụ mới, chính trị của giai cấp vô sản đã chuyển trọng tâm từ lật đổ giai cấp thống trị cũ để giành quyền lực sang đấu tranh để giữ vững quyền lực và thực thi quyền lực bằng cách chiến thắng các thế lực tự phát tiểu tư sản, các thế lực phản động nhằm âm mưu bạo loạn, lật đổ nhằm khôi phục lại chế độ cũ. Mặt khác, giai cấp cầm quyền phải làm quen với công việc mới, phải học cách lãnh đạo, quản lý để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tốt nhất sự uỷ quyền của nhân dân, làm cho việc thực thi quyền lực đó không bị biến dạng, thoái hoá, để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. "Chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản" (Lênin, toàn tập, tập 41, tr.482).
Lênin xác định: lúc này, chính trị đã chuyển trọng tâm vào kinh tế, cơ sở để chiến thắng là sức mạnh kinh tế, là năng suất lao động, xã hội dựa trên tài năng sáng tạo, năng lực tổ chức và hiệu quả quản lý để đông đảo quần chúng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và xây dựng chế độ mới. "Mỗi bước dẫn chúng ta tới ngày chiến thắng bọn bạch vệ đều chuyển dần trọng tâm đấu tanh vào chính trị trong lĩnh vực kinh tế" (Lênin, toàn tập, t.41, tr.482).
Ông chỉ rõ: "Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng Nhà nước về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng lúa mì và than đó hợp lý hơn, sao cho không còn có người đói nữa" (tr.483).
Khi chính trị chuyển trọng tâm quân sự trong chiến tranh sang trọng tâm kinh tế trong hoà bình, đây là một bước chuyển khó khăn, phức tạp, vấn đề trọng yếu và khó khăn nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức: Phải xây dựng một hệ thống tổ chức mới làm sao cho phù hợp với chính sách kinh tế mới. "Một bộ máy vững mạnh phải thích ứng với mọi sự biến đổi" (Lênin, toàn tập, tập 43, tr.87).
Nhìn nhận mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành chính quyền, Lênin cho rằng: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế".
"Chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế" (Lênin, toàn tập, t.42, tr.349).
* Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế hay chính trị là kinh tế cô đọng lại, có nghĩa chính trị có căn nguyên từ kinh tế. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của thực trạng kinh tế. Toàn bộ hệ thống chính trị của xã hội phải bảo vệ được lợi ích của giai cấp thống trị mà trước hết là lợi ích kinh tế. Như vậy, xét đến cùng lợi ích kinh tế là căn nguyên xã hội quy định những hoạt động chính trị.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế cũng có nghĩa kinh tế là nội dung còn chính trị là hình thức phản ánh có tính chất tập trung của kinh tế. Thông qua việc hình thành những tổ chức chính trị, những chính sách để từ đó giải quyết những vấn đề quy định mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện, môi trường bảo hộ và phát triển kinh tế.
Chính trị không ngoài mục đích phát triển kinh tế, kinh tế là gốc, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế hợp lý tạo điều kiện cho chính trị phát triển, kinh tế khủng hoảng sẽ dẫn tới sự khủng hoảng về chính trị. Do vậy, chính trị nếu không hướng vào giải quyết những vấn đề quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế thì chính trị sẽ không có cơ sở tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bằng chính trị mới tiến bộ hơn.
Chính vì vậy, trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô - viết" viết năm 1918, Lênin đã nêu: "Trong quản lý, cái có ý nghĩa trọng đại hơn cả không là chính trị mà là kinh tế. Cơ sở thực chất của chính quyền Xô - viết cũng như thực chất của quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH là ở chỗ các nhiệm vụ chính trị không phải phụ thuộc so với các nhiệm vụ kinh tế" (Lênin, toàn tập, t.36, tr.256).
* Mặt khác, chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế. Chính trị có ảnh hưởng to lớn đối với kinh tế. Nó tác động trực tiếp tới sự biến đổi của chế độ kinh tế, quyền lợi chính trị được sử dụng, tổ chức các quan hệ kinh tế theo lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy, ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho những vấn đề căn bản quyết định cho sự phát triển của bản thân kinh tế.
Sự tác động chính trị đối với kinh tế theo hai hướng, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Chỉ với đường lối quyết sách chính trị đúng mới làm cho kinh tế phát triển, ngược lại chính trị sai lầm hay lạc hậu có thể kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm tổn hại đến kinh tế dẫn đến làm suy yếu chính trị và ảnh hưởng trực tiếp tới các quan hệ xã hội.
Chính trị không những có vai trò lãnh đạo kinh tế mà còn tạo môi trường xã hội ổn định để phát triển kinh tế, tham gia quản lý nền kinh tế, kiểm soát những vấn đề cơ bản của nền kinh tế như vốn, ngân sách, đầu tư...
Như vậy, mối quan hệ chính trị - kinh tế là mối quan hệ cơ bản, phức tạp trong xã hội, nên giải quyết nó không được tuyệt đối hoá một lĩnh vực nào. Vì tất cả các quan điểm, quyết định và hành vi chính trị nào cũng đều xuất phát từ nguồn kinh tế và cơ sở xã hội của nó, cũng đều liên hệ bằng cách này hay cách khác với những lợi ích kinh tế, những quan hệ kinh tế. Chính trị ở trong kinh tế và ngược lại kinh tế thâm nhập vào chính trị.
Mối quan hệ này được Lênin giải quyết một cách đúng đắn trong thực tiễn xã hội nước Nga vào thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới. Như đã trình bày ở chương I, nước Nga trong những năm đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, với nội chiến, bắt buộc phải thực hiện "Chính sách cộng sản thời chiến" đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế, chính trị, trước tình hình đó, Lênin khẳng định cần phải chuyển sang Chính sách kinh tế mới.
Vạch rõ thực trạng này, Lênin đánh giá rằng: "vào năm 1921 chúng ta vấp phải một cuộc khủng hoảng chính trị bên trong nước Nga - Xô viết, đó là cuộc khủng hoảng lớn nhất. Cuộc khủng hoảng đó không những làm cho một bộ phận khá lớn trong nông dân mà ngay cả trong chúng ta cũng phải bất bình" (Lênin, toàn tập, t.45, tr.327).
Theo Lênin trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng, thì nhân tố đầu tiên là các chính sách, chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của người lao động, trước hết là nông dân, trong điều kiện họ đã mệt mỏi do chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn đói, thiếu công việc làm và thiếu điều kiện bình thường về an toàn xã hội. Nhân tố quan trọng thứ hai là nạn quan liêu, thoái hoá trong bộ máy Nhà nước, hiện tượng một bộ phận cán bộ nhân viên, kể cả những người lãnh đạo xa rời quản lý, thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng cũng phát triển thì càng gây thêm mất lòng tin và bất mãn trong quần chúng...
Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng, Lênin chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là sai lầm trong lãnh đạo quản lý trước hết và chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Lênin viết: "Tinh thần hăng say, tinh thần anh dũng và xung phong đã giúp chúng ta những nhiệm vụ chính trị và quân sự. Chúng ta đã đạt được thắng lợi về chính trị và quân sự như thế đó, nhưng những ưu điểm đó nay đã trở thành khuyết điểm nguy hiểm nhất cho chúng ta. Khi tình hình đã thay đổi chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ khác, không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua" (Lênin, toàn tập, t.44, tr.398).
Chuyển sang NEP. Để khôi phục kinh tế mà trọng yếu hơn cả là nông nghiệp nên khâu đầu tiên để thực hiện NEP là chuyển chế độ trưng thu lương thực thừa sang chính sách thuế lương thực, đây là "biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất cho họ" (Lênin, toàn tập, t.43, tr.262).
Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính sang biện pháp kinh tế (Lênin, toàn tập, t.43, tr.262).
+ Vấn đề thứ nhất trong NEP: Cho phép tự do buôn bán trong giới hạn nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của cuộc sống đông đảo quần chúng nông dân, thay đổi bộ mặt nước Nga.
+ Vấn đề thứ hai: Sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong hệ thống quản lý có kế hoạch và tổ chức lại phương pháp lãnh đạo kinh tế.
Chính sự chuyển hướng đó tất yếu dẫn đến sự khôi phục, củng cố và tăng cường nền tài chính và hệ thống ngân hàng, để từng bước sử dụng như những công cụ mạnh mẽ của Nhà nước trong quản lý kinh tế giành quyền làm chủ giá cả, đưa toàn bộ nền kinh tế vào quỹ đạo được quản lý có kế hoạch.
+ Vấn đề thứ ba: Lênin chủ trương tô nhượng, một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhằm thu hút tư bản nước ngoài góp vốn thúc đẩy nền kinh tế trong nước.
+ Vấn đề thứ tư: Chuyển hợp tác xã sang con đường của chính sách kinh tế mới.
Trong hợp tác xã thời kỳ chính sách kinh tế mới, hình ảnh trong những người cộng sản đã tăng nhanh; hình thức hợp tác xã rất phong phú từ thấp tới cao: Công xã, ác-len, hội liên hợp... trong đó phát triển mạnh nhất là các Hội liên hiệp đơn giản như: Hội máy móc, Hội cải tạo đất, Hội canh tác... Trong tác phẩm " Bàn về chế độ hợp tác xã" nhấn mạnh: "Kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc Nhà nước kiểm soát là kiểm tra lợi ích đó, mức độ làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung" (Lênin, toàn tập, t.45, tr.422).
+ Vấn đề thứ năm: Vấn đề sử dụng chuyên gia tư sản.
Khiđưa ra chính sách kinh tế mới là quá trình thực hiện ngoài việc sử dụng hình thức tư bản Nhà nước để thu hút tư bản nước ngoài. Lênin rất chú trọng đến việc sử dụng chuyên gia tư bản. Ông cho rằng, ở một nước công nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí thấp, rất cần những người giỏi về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về khâu quản lý tổ chức. Do vậy, việc sử dụng chuyên gia tư sản có lợi về nhiều mặt, trước hết là nó tạo ra sản phẩm trực tiếp cho xã hội như cái quan trọng hơn họ còn là những người thầy để cho người cộng sản học hỏi.
Khi bàn về quản lý Lênin cho rằng: Sẵn sàng đổi một tá cộng sản lấy một chuyên gia tư sản, người khẳng định trong khi sử dụng các chuyên gia tư sản "chớ nên suy tính về học phí, chớ có sợ phải trả đắt miễn là thu được kết quả tốt" (Lênin, Sđd, t.43, tr.295).
Đồng thời Người cũng dạy những người cộng sản: "Một người cộng sản thông minh không sợ phải học một nhà tư bản dẫu là một nhà tư bản được tô nhượng hay một thương gia kinh tế, hay một nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã..." (Lênin, toàn tập, t.43, tr.293).
+ Vấn đề thứ sáu: Củng cố khối liên minh công nông chặt chẽ, coi đó là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, là cơ sở chính quyền Xô viết, là điều kiện quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường vai trò của Đảng Cộng sản.
Để củng cố khối liên minh công - nông, Lênin đưa ra kế hoạch và chỉ rõ: giai cấp công nhân và Đảng của mình trước hết cần phải nhượng bộ và thảo luận với nông dân. Người khẳng định: "Chúng ta phải tổ chức nền kinh tế Nhà nước thích ứng với kinh tế của trung nông mà trong 3 năm qua chúng ta chưa cải tạo được, và 10 năm nữa chúng ta vẫn chưa thể cải tạo xong".
Lênin coi liên minh công - nông như một điều kiện cần thiết không thể thiếu để đạt kết quả cuối cùng của cách mạng XHCN cải tạo cả công nghiệp lẫn nông nghiệp theo nguyên tắc XHCN.
Theo Lênin, con đường củng cố khối liên minh công - nông phải dựa trên cơ sở tính nguyên tắc là: điểm xuất phát vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Điều quy định bản chất của khối liên minh công - nông, xu hướng phát triển và mục tiêu của nó là sự cần thiết phải củng cố và giành thắng lợi cho quan hệ xã hội chủ nghĩa ở các thành thị và nông thôn, là sự cần thiết củng cố chuyên chính vô sản. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể vạch ra triển vọng XHCN cho việc củng cố khối liên minh này, mới là người đại diện cho lợi ích của hai giai cấp anh em.
Từ luận điểm đó ta có thể thấy vai trò của giai cấp công nhân trong khối liên minh công nông chủ yếu được thực hiện ở chỗ giai cấp này phải lãnh đạo việc chuyển các tiểu thủ nông nghiệp sang hình thức lao động tập thể XHCN.
+ Vấn đề thứ bảy: Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy Nhà nước, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, chống chủ nghĩa quan liêu.
Cùng với việc thực hiện chính sách kinh tế mới cần phải củng cố, xây dựng bộ máy Nhà nước cho phù hợp với điều kiện bấy giờ. Khi thông qua dự thảo chính sách kinh tế mới của Lênin, Đảng Cộng sản Nga đã xác định nhiệm vụ chính trị cơ bản là toàn bộ cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền phải nắm đầy đủ và thi hành cho đúng "chính sách kinh tế mới" sự lãnh đạo kinh tế quốc dân phải điều chỉnh lại, hình thức và phương pháp phải được cải tiến.
Theo Lênin, Đảng Cộng sản có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chuyên chính của giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành điều chủ yếu nhất, thành nguyên tắc bắt buộc không chỉ đối với việc thực hiện chuyên chính vô sản và dân chủ XHCN mà còn cả công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế: "Để làm cho giai cấp vô sản có thể thực hiện một cách đúng đắn vai trò tổ chức của nó một cách có kết quả và thắng lợi thì chính đảng của giai cấp vô sản phải được thực hiện trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt... Biết nhận xét tâm trạng của quần chúng và biết cách tác động vào tâm trạng của quần chúng" (Lênin: Sđd - tập 41, trang 34).
Chính đảng của giai cấp vô sản chỉ có khả năng thực hiện được vai trò tổ chức đảng khi nó đem tất cả lực lượng của mình để không ngừng "cải tiến tổ chức của Đảng, nâng cao chất lượng nội dung công tác của Đảng, tạo một sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa với quần chúng, thảo ra một sách lược và một chiến lược ngày càng đúng đắn và chính xác của giai cấp công nhân". (Lênin: Sđd - tập 44, trang120).
Xuất phát từ chỗ phân biệt rõ ràng dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là nền dân chủ thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số với dân chủ tư sản - thứ dân chủ đóng vai trò bình phong che đậy quyền lực của thiểu số bóc lột. Lênin coi tiền đề chủ yếu nhất đối với đảng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế theo tinh thần của NEP thành công là liên hệ hàng ngày, sinh động, toàn diện với quần chúng nhân dân lao động. Ông coi đó là sự thể hiện tính chất dân chủ sâu sắc của công tác Đảng. Lênin đưa ra quy tắc xử thế về chính trị với những người lãnh đạo và đối với mọi đảng viên của Đảng là: Liên hệ với quần chúng; sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần chúng; biết tất cả, hiểu quần chúng, biết đến quần chúng giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng; những người lãnh đạo không được tách rời khỏi quần chúng bị lãnh đạo. Đội tiên phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội quân lao động". (Lênin: Sđd - tập 44, trang11).
Điều chủ yếu khắc phục tệ quan liêu và bệnh giấy tờ của bộ máy Nhà nước, Lênin đã nêu ra điểm chủ yếu là "lựa chọn người thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm, kiểm tra công việc thực tế". (Lênin: Sđd - tập 44 trang 278).
Trong điều kiện mới của công cuộc xây dựng CNXH đòi hỏi phải xây dựng lại hệ thống tổ chức quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện triệt để những nguyên tắc tập trung dân chủ. Người khẳng định, về phương diện kinh tế và chính trị chính sách kinh tế mới hoàn toàn đảm bảo khả năng xây dựng cơ sở cho nền kinh tế XHCN: "Lực lượng kinh tế mà nhà nước vô sản Nga nằm trong tay hoàn toàn đủ đảm bảo cho bước chuyển sang chủ nghĩa cộng sản". (Lênin: Sđd - tập 45, trang114).
Song nhiệm vụ quan trọng nhất đã phát huy kết quả là "không ngừng tinh giảm bộ máy Xô viết và giảm bớt chi phí của nó bằng cách giảm nhẹ biên chế, cải tiến tổ chức, xoá bỏ tác phong lề mề hành chính, bệnh quan liêu và giảm bớt các khoản chi tiêu phi sản xuất". (Lênin: Sđd - tập 45, trang359).
Trong tác phẩm "Thà ít mà tốt" Lênin đã vạch ra kế hoạch cải tổ một cách căn bản bộ máy Nhà nước và tổ chức kiểm tra. Bàn về việc cải cách bộ máy Nhà nước, Lênin yêu cầu đổi mới thành cơ quan thực sự gương mẫu: "Muốn đổi mới bộ máy Nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức đặt cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, hai là học tập, thứ ba học tập mãi và sau nữa phải làm sao cho học thức ở nước Nga không nằm trên giấy hoặc một lời nói theo mốt nữa (điều này thú thực là thường hay xảy ra ở nước ta) phải làm sao cho học thức phải thật sự ăn sâu vào trí não hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít trong cuộc sống của mỗi chúng ta" (Lênin: Sđd - tập 45, trang 444).
Trong quá trình cải cách bộ máy phải thấm nhuần nguyên tắc "Thà ít mà tốt". Khi xem xét việc cải tổ tổ chức kiểm tra Lênin cho rằng, cần xác nhận công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Nhà nước để thành lập cơ quan duy nhất: Ban kiểm tra Trung ương - Bộ dân uỷ thanh tra công nông. Theo ông việc xây dựng một hệ thống cân đối cơ quan kiểm tra duy nhất của Đảng và Nhà nước bao quát tất cả, thường xuyên hoạt động sẽ có ý thức lớn lao đối với việc giải quyết nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin, vấn đề quan trọng cần phải bàn đến đó là công tác tổ chức cán bộ, phải có tổ chức mạnh và cán bộ giỏi đầy tài năng sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh dám chịu trách nhiệm. Lênin đòi hỏi phải chú ý tìm cho ra và thử thách một cách hết nhẫn lại và thận trọng những người thực sự có tài tổ chức, những người có óc sáng suốt, có bản lĩnh trong thực tiễn. Họ là những con người vừa trung thành CNXH lại vừa có khả năng tổ chức một cách vững chắc và nhịp nhàng những công việc làm chuyển cả một khối người to lớn trong phạm vi tổ chức Xô viết. Chỉ những người như vậy chúng ta mới đề bạt lên chức vụ lãnh đạo và quản lý sau khi đã thử thách họ hàng chục lần bằng cách cho họ đảm nhận những chức vụ đơn giản nhất đến khó khăn nhất, phải kiểm tra công việc và con người chấp hành, tăng cường kiểm soát để công việc được thi hành và kỷ luật được thực hiện một cách nghiêm ngặt nhất. Mấu chốt của vấn đề là chọn đúng người, giao đúng việc, kết hợp giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục với đôn đốc và kiểm tra trong một tổ chức phân công hợp lý. Đó là điều đảm bảo cho thắng lợi trong mọi hoạt động kinh tế chính trị thực tiễn.
Như vậy, từ thực tiễn nước Nga cho thấy, việc thực hiện Chính sách kinh tế mới của Lênin tuy rằng trong một thời gian ngắn từ năm 1921-1924, nhưng đã tạo nên một phát triển vượt bậc, khủng hoảng được giải quyết, nền kinh tế phát triển mạnh, đời sống của nhân dân được cải thiện. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đó là do bộ máy Nhà nước đã nắm vững các phương pháp mới trong lãnh đạo kinh tế, đã cải tiến cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
II. ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Qua 20 năm đổi mới, việc vận dụng Chính sách kinh tế mới, đặc biệt là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Lênin vào phát triển kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Từ một nước thiếu ăn, chuyên sống dựa vào sự viện trợ của nước ngoài trở thành một nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 3 trên thế giới, mặt bằng dân trí nâng cao, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Việt Nam đã tạo cho mình một thế đứng trên chính trường quốc tế, điều này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, khích lệ toàn Đảng, toàn dân tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước.
Trước đổi mới, nước ta cũng như các nước XHCN trên thế giới đã sai lầm trong việc tìm cách giải pháp kinh tế, xã hội trong quá trình cải tổ, đổi mới. Chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò của chính trị, dùng chính trị và các biện pháp chính trị thay cho các biện pháp kinh tế, giải quyết các mâu thuẫn của đất nước bằng chính trị hơn là bằng kinh tế. Lênin đã nói: "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế", do vậy để giải quyết những vấn đề xã hội cần phải xem xét từ căn nguyên kinh tế.
Trong bối cảnh của cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội XII của Đảng: chúng ta đã nhận rõ nguyên nhân sai lầm nôn nóng chủ quan duy ý trí của chủ trương "tiến nhanh, tiến mạnh" lên CNXH trong những năm trước đổi mới ở nước ta... Khi đó với mục đích đúng đắn là nâng cao hiệu quả của sự nghiệp nông nghiệp song biện pháp và đi quá vội vàng, chúng ta đã quá vội vàng tiến hành hợp tác hoá và xây dựng hợp tác xã bậc cao bất chấp quy luật phát triển kết quả của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta và độc lập tự do hạnh phúc vậy kết quả mang lại không như mong muốn. Chúng ta đã thiếu quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và phần nào đã không đánh giá đúng giai cấp một luận điểm quan trọng của Lênin trong NEP - luận điểm về tính khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ lạc hậu lên nền sản xuất lớn XHCN bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu quả của việc làm đó không chỉ ở chỗ sản xuất nhỏ không phát triển mà còn ở chỗ niềm tin của người nhân dân vào đường làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút độc lập tự do hạnh phúc lợi ích kinh tế của họ không được đáp ứng, đời sống của họ ít được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và các lĩnh vực khác cũng diễn ra như vậy.
Thực tiễn cho thấy không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương biện pháp tư duy kinh tế đã cũ mang đậm tính bị động và đối phó.
Đảng ta đã đặt sự nghiệp đổi mới trong một thể chế thống nhất của các nhân tố ổn định và phát triển, đổi mới có nguyên tắc với mục đích xác định là khắc phục các khuyết điểm, sai lầm để xây dựng CNXH cú hiệu quả mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
Vì kinh tế chúng ta tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Về chính trị từng bước xây dựng hệ thống chính trị XHCN theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ đổi mới tư duy. Chúng ta ngày càng có ý thức rõ rệt vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của NEP trong từng giai đoạn. Có thể nói giờ đây những thành tựu chúng ta đặt được nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị cho CNH đã cơ bản hoàn thành và cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Công cuộc đổi mới nước ta hiện nay với bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước khác xa với hoàn cảnh lịch sử quốc tế và nước Nga thời kỳ NEP. Do đó việc vận dụng NEP của Lênin chỉ là sự vận dụng tinh thần của NEP.
Khẳng định quan điểm vận dụng một cách sáng tạo và phát triển hơn nữa những tư tưởng cơ bản của Lênin và chính sách kinh tế mới nhằm mục đích sáng tạo ra những hình thức quá độ những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với bối cảnh của công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đảng ta đã tiến hành thảo luận dân chủ nghiêm túc trên cơ sở khái quát lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đến quyết định chủ trương đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế Nhà nước với thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. ( Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII - NXB CTQGG).
Thực tiễn công cuộc đổi mới được tiến hành ở nước ta những năm vừa qua đã chứng minh: Trong bối cảnh quốc tế hiện thời chúng ta không có điều kiện để quá độ tiến thẳng lên CNXH, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián tiếp lên CNXH. Với đường lối đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phát triển nền kinh tế thị trường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân, cổ phần hoá các xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ...
Điều đó có thể dẫn tới sự phục hồi CNTB ở mức độ nhất định nào đó. Song một khi chủ nghĩa tư bản được phục hồi thì biện pháp hữu hiệu nhất Lênin khẳng định: Không phải là thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tuy nhiên các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện hiện nay nó khác xa với thời kỳ NEP, nó đa dạng phong phú hơn, nhưng dù nó có đa dạng phong phú hơn trong điều kiện giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan.doc