Tiểu luận Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta

Chúng ta bước vào hội nhập khi đã và đang thực hiện thành công quá trình đổi mới. Hai quá trình này gắn bó, bổ trợ cho nhau, bởi vì những cam kết quốc tế về hội nhập kinh tế không trái với những chủ trương đổi mới của ta, ngược lại phần nào có tác dụng xúc tác, thúc đẩy quá trình đổi mới. Thực hiện thành công đổi mới là tạo điều kiện cho ta hội nhập hiệu quả nhất. Nhịp độ phát triển kinh tế tương đối cao và sự ổn định về chính trị mà nước ta duy trì được trong hơn 5 năm đổi mới vừa qua đã tạo thế và đà cho Việt Nam hội nhập. Đặc biệt, những thành tựu chúng ta đạt được trong quá trình xây dựng một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN với một số thể chế cơ bản của kinh tế thị trường đã được hình thành và phát triển là tiền đề cần thiết để chúng ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế.

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12024 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Nhưng lúc đó, cũng mới nói nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Đại hội khẳng định phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị trường. Vì vậy kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, là kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, nó không chỉ bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Vì vậy không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý, trừu tượng, tách khỏi các hình thái kinh tế - xã hội, tách rời chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau, có những hậu quả xã hội khác nhau. Tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào đường lối của đảng cầm quyền, vào chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có hai đặc điểm cơ bản: Một là, đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu hình thành, còn sơ khai, còn ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ. Hai là, kinh tế thị trường mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nó khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nó do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là tất yếu, bởi vì: - Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một đặc điểm bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Không có Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý thị trường không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN mà đó sẽ là kinh tế thị trường định hướng tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Nhờ có Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính sách, pháp luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô (tài chính, tín dụng, kế hoạch, quy hoạch...) sẽ hạn chế tính tự phát tư bản chủ nghĩa, đảm bảo được định hướng XHCN cho sự phát triển của kinh tế thị trường, thực hiện được sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: mặt phải (tích cực) như thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế... và mặt trái (tiêu cực) như thúc đẩy phân hoá giàu - nghèo, khuyến khích lối sống thực dụng vị kỷ, chạy theo đồng tiền, hạ thấp giá trị đạo đức...; mặt trái của kinh tế thị trường mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội. Những lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, chuyển hoá chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch... để tổ chức thực hiện, đưa vào cuộc sống, nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân đông đảo nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nhân tố cơ bản của hệ thống chính trị, của kiến trúc thượng tầng chính trị. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước chính là tăng cường sự tác động của chính trị đối với kinh tế thị trường để thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ vững định hướng XHCN của kinh tế thị trường; ngược lại, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ buộc Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo, còn Nhà nước phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phải cải cách hành chính cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của kinh tế thị trường. Như vậy, trong công thức do Đảng Cộng sản Việt Nam nêu lên "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã phản ánh một tư tưởng biện chứng rất quan trọng của Lênin - tư tưởng về sự tự giác kết hợp giữa mặt đối lập biện chứng: chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường, những mặt đối lập tưởng chừng không thể kết hợp được như đất với trời, như nước với lửa, như người cộng sản với người buôn xỉ. Vấn đề là ở chỗ kết hợp như thế nào để tạo ra những "âm thanh du dương êm tai" chứ không phải những "điệu nhạc chói tai" như Lênin đã từng nói một cách hình ảnh. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quyết định trong sự kết hợp đó. 2. Thực chất của đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của quan hệ hàng hoá - tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy lý luận mới về quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Từ đó vai trò của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ("bàn tay hữu hình" - "bàn tay vô hình"), giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và dân trong hoạt động kinh tế. Nhà nước trước đây là chủ thể của chế độ sở hữu, bây giờ đang chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu; trước đây là trực tiếp kinh doanh bây giờ sang thiết kế "luật chơi", hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, trước đây là kế hoạch hoá trực tiếp bây giờ sang điều tiết bằng công cụ kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ở Việt Nam, chức năng cơ bản của Nhà nước về kinh tế bao gồm: - Định hướng phát triển nền kinh tế thông qua chiến lược, chính sách, kế hoạch, quy hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô. - Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo; thực hiện chế độ phân phối lợi ích một cách hợp lý thông qua việc sử dụng các công cụ ngân sách, thuế, tín dụng, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh về kinh tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo mọi thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính sách. Nghiêm trị các hoạt động buôn lậu, gian lận, trốn thuế, tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu phiền hà... Sau 18 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường ở nước ta bước đầu được hình thành sự quản lý nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, kinh tế thị trường còn sơ khai, sự quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều yếu kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý còn thấp. Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đồng bộ và chưa nhất quán, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai... còn nhiều yếu kém, sơ hở; thủ tục hành chính rườm rà, cải cách hành chính còn chậm và chưa kiên quyết. Do đó việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan, cấp bách. Để thực hiện yêu cầu này, cần thực hiện một số giải pháp sau đây: a. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý kinh tế. Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ, nhanh bị thay đổi. Vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế để thể chế hoá Cương lĩnh, đường lối, các chủ tr ương, chính sách của Đảng. Cần sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh hiện hành và ban hành các luật mới như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền, luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật bảo hộ quyền sở hữu tư nhân... Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai trò của Quốc hội, các uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách trong việc đưa ra và xem xét các dự án luật. b. Hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chủ nghĩa Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường bao gồm thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển. Thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách kết hợp sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết phân phối và thu nhập. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước theo quy định của pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, tham nhũng, lãng phí... tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng sở hữu tài sản công của Nhà nước, phân định rõ quản lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh. c. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế Đổi mới công tác kế hoạch hoá tập trung trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường thông tin kinh tế, công tác kế toán, thống kê. Giải quyết mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách nhà nước. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Nâng cao hiệu quả đầu tư vốn và sử dụng vốn, chống lãng phí thất thoát. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước. d. Đẩy mạnh cải cách hành chính Trong những năm qua ở Việt Nam đã tiến hành một bước cải cách hành chính, tuy nhiên như Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, Trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và làm giảm động lực phát triển"(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.77. . Vì vậy cấp bách phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 do Chính phủ phê duyệt nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu của cải cách hành chính bao gồm: - Cải cách tổ chức bộ máy các cấp từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, có hiệu lực, hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm. - Cải cách công cụ và chế độ công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực. - Cải cách thủ tục hành chính theo hướng thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản, xoá bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân và các doanh nghiệp. Việc cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả theo hướng xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. III. Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của chính trị trong hội nhập kinh tế ở nước ta Để tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế thành công, tức là để quá trình đó đi đúng theo định hướng của Đảng, Nhà nước ta; để nó có thể phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, trước mắt là phục vụ cho việc thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2001-2010" và "Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010", cần xác định những phương hướng chủ yếu, triển khai thực hiện một số giải pháp cấp bách để tăng cường, phát huy vai trò của chính trị đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. 1. Phương hướng 1.1. Tăng cường lãnh đạo chính trị đảm bảo định hướng XHCN trong quá trình hội nhập Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập kinh tế là một phương hướng mang tính chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa quyết định, đảm bảo hội nhập đúng hướng và thành công. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đảm bảo định hướng XHCN trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập thì cần phải coi hội nhập là một trong những lĩnh vực then chốt trong hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền ở mọi cấp. Từ đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành trong việc hoạch định chủ trương, chính sách, biện pháp và thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Điều quan trọng là phải duy trì được sự ồn định chính trị xã hội trong nước để tập trung sức cho phát triển kinh tế và hột nhập có hiệu quả. Các cam kết mở cửa chỉ có thể thực hiện được khi chúng phù hợp với thực tế phát triển trong nước và có đủ các điều kiện khả thi, đặc biệt là sự tồn tại của một khuôn khổ pháp lý cần thiết và thực sự có hiệu lực. Giữ vững ấn định chính trị xã hội trong nước tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài an tâm bỏ vốn vào làm ăn lâu dài ở nước ta, đồng thời cho phép Đảng, Nhà nước và cơ quan chính quyền các cấp rảnh tay, tập trưng trí tuệ, sức lực để lãnh đạo kinh tế và các hoạt động hội nhập. Đảm bảo định hướng XHCN trong hội nhập cũng có nghĩa là quán triệt sâu sắc và tuân thủ nghiêm ngặt một nguyên tắc chỉ đạo cơ bản là: hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thành phần kinh tế nhà nước là một trong những nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta giữ được định hướng XHCN. Quá trình hình thành và lãnh đạo thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện đất nước của Đảng ta cho thấy, một trong những phương hướng đổi mới cơ bản của Đảng ta về vấn đề quan hệ sản xuất là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu đa dạng, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế đa thành phần như vậy, mỗi thành phần kinh tế đều có một vị trị vai trò nhất định đối với việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, khi khẳng định và triển khai xây dựng một nền kinh tế đa thành phần ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta không coi mọi thành phần kinh tế đều có vị trí và vai trò ngang nhau trong nền kinh tế quốc dân. Thừa nhận rằng mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế đa thành phần ở nước ta đều có vị trí, vai trò tích cực nhất định, song Đảng ta khẳng định thành phần kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đầu tàu, đồng thời kinh tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng, cột trụ của nền kinh tế quốc gia. Đây chính là nhân tố thể hiện tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ. Nếu kinh tế nhà nước không đảm bảo được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quá độ đa thành phần này thì sẽ ảnh hưởng không những tới tính chất của nền kinh tế quá độ lên CNXH mà còn tạo ra nguy cơ đi chệch hướng, không thực hiện được mục tiêu chiến lược là đi lên CNXH. Bởi vì, nền tảng kinh tế của CNXH, sức mạnh kinh tế của CNXH chích là kinh tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể. Do vậy, việc duy trì vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ hiện nay không chỉ đảm bảo đi đúng hướng mà còn dần thiết lập, củng cố sức mạnh kinh tế của chế độ xã hội mới - xã hội XHCN. Tương tự như vậy, phát huy vai trò đầu tàu, chủ đạo của kinh tế nhà nước kết hợp với kinh tế tập thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của nước ta là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo định hướng XHCN của quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giữ vững nguyên tắc: hợp tác, hội nhập phải đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, lợi ích của CNXH. Trong hội nhập, một mặt chúng ta chủ động hợp tác với các nước trên thế giới nhằm khai thác tối đa các lợi thế, song mặt khác, không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với những tình huống xấu, ảnh hưởng tiêu cực tới ổn định chính trị và sự vững chắc của chế độ XHCN. Bởi lẽ, chúng ta thừa hiểu ràng, các thế lực thù địch không khi nào chịu từ bỏ âm mưu tiêu diệt CNXH. Tổ chức Đảng các cấp, từ Trung ương tới địa phương cần thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế, định hướng để các hoạt động hội nhập vì lợi ích dân tộc, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Chính phủ cần xây dựng chiến lược, lộ trình cụ thể về hội nhập kinh tế quốc tế và tổ chức bộ máy hữu hiệu để triển khai hoạt động hội nhập. Quốc hội có chương trình xây dựng và điều chỉnh luật pháp vừa bảo đảm định hướng XHCN của ta vừa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các địa phương, các doanh nghiệp có chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện các nghị quyết của Đảng, tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường.g sự gắn kết, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành, các địa phương, gắt kết các ban của Đảng với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, dưới sự Lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ về các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong triển khai thực hiện mục tiêu, nguyên tắc hội nhập thì sự lãnh đạo của Đảng và tổ chức thực hiện của Chính phủ có ý nghĩa quyết định, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp đóng vai trò then chốt. Sự tham gia của các cơ quan Quốc hội, các ban của Đảng sẽ góp phần tăng cường sự chỉ đạo, giám sát việc hội nhập ở tầm vĩ mô. Sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng sẽ bảo đảm cho hội nhập kinh tế quốc tế được quán triệt sâu rộng trong các tầng lớp xã hội, giúp cho dư luận xã hội nhận thức rõ hơn thời cơ, cũng như thách thức trong hội nhập kinh tế. Từ đó hiểu đúng để hành động đúng, không mất cảnh giác trước âm mưu (diễn biến hoà bình", "bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch, vững vàng đi vào hội nhập kinh tế quốc tế. tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc, phân biệt đúng bạn - thù, đối tác thực giả. 1.2. Tiếp tục đổi mới tư duy chính trị phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Như trên đã phân tích, những thành công và tồn tại, cũng như những vấn đề đã và đang nảy sinh liên quan đến vai trò của chính trị trong quá trình triển khai hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đều gắn với tư duy, nhận thức của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp và toàn thể xã hội. Do vậy, một trong những phương hướng chủ yếu nhằm phát huy vai trò của chính trị trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta là phải tiếp tục đổi mới tư duy chính trị cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể là cần nhận thức đúng, chính xác yêu cầu khách quan về hội nhập, thấy rõ cơ hội và thách thức. Phải làm cho toàn Đảng, toàn dân ý thức rõ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta là một yêu cầu tất yếu khách quan, phù hợp với sự phát triển của thời đại ngày càng có xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá mạnh mẽ. Đồng thời, trong điều kiện của nước ta, hội nhập quốc tế không chỉ là quá trình diễn ra dưới sức ép của xu hướng tất yếu của thời đại, mà điều quan trọng hơn, đây còn là một quá trình mang tính chủ động, đáp ứng lợi ích nhu cầu phát triển nội tại của đất nước chúng ta. Sự chủ động này xuất phát không chỉ từ việc thừa nhận lợi ích to lớn do hội nhập đem lại, mà còn từ ý thức về những thách thức gay gắt phát sinh do hội nhập. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương rất đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước ta. Nước ta không thể CNH - HĐH, không thể thoát cảnh nghèo nàn lạc hậu nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới. Đi lên CNXH càng không thể đóng cửa mà đi lên. Nếu không có LLSX phát triển mà nói CNXH thì hoàn toàn là ảo tưởng. Nhưng trong thế giới ngày nay, LLSX hiện đại lấy đâu ra nếu không phải từ thế giới, thông qua hội nhập quốc tế trao đổi, buôn bán, thu hút đầu tư nước ngoài, thông qua đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, biết lợi dụng khôn khéo những mâu thuẫn giữa các nước. Cùng với ý thức về tính tất yếu khách quan phải hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cũng cần nhận thức đầy đủ những thời cơ và nguy cơ, thách thức sẽ nảy sinh trong quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, từ đó có chính sách, hành động thích hợp kịp thời phát huy lợi thế tận dụng thời cơ, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ thách thức. Về cơ hội và thuận lợi: Không phải chúng ta tiến hành hội nhập với hai bàn tay trắng, mà đất nước ta có tiềm năng to lớn cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn vốn con người để đi vào hội nhập với một vị thế xứng đáng. Những lợi thế gồm có: tài nguyên thiên nhiên phong phú, chưa khai thác đáng kể; vị trí địa - chính trị quan trọng, nước ta vừa nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của thế giới hiện nay, vừa là điểm giao cắt của những tuyến đường hàng hải quan trọng ở châu á - Thái Bình Dương, vì vậy đây là một yếu tố chiến lược quan trọng đối với hoạt động kinh tế, giao lưu, trao đổi buôn bán của khu vực và thế giới; lực lượng lao động của nước ta trẻ, cần cù, chịu khó, khéo léo; nước ta là một thị trường tiêu thụ tiềm tàng với gần 80 triệu dân có sức mua ngày càng tăng. Đó là những yếu tố nội lực quyết định, những lợi thế rất lớn trong phân công lao động quốc tế hiện nay. Thêm vào đó, với chính sách đối ngoại đổi mới, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, chúng ta đã tạo dựng được một sự tuỳ thuộc lẫn nhau đáng kể với nền kinh tế thế giới và khu vực về thị trường nông sản và thị trường năng lượng. Chúng ta bước vào hội nhập khi đã và đang thực hiện thành công quá trình đổi mới. Hai quá trình này gắn bó, bổ trợ cho nhau, bởi vì những cam kết quốc tế về hội nhập kinh tế không trái với những chủ trương đổi mới của ta, ngược lại phần nào có tác dụng xúc tác, thúc đẩy quá trình đổi mới. Thực hiện thành công đổi mới là tạo điều kiện cho ta hội nhập hiệu quả nhất. Nhịp độ phát triển kinh tế tương đối cao và sự ổn định về chính trị mà nước ta duy trì được trong hơn 5 năm đổi mới vừa qua đã tạo thế và đà cho Việt Nam hội nhập. Đặc biệt, những thành tựu chúng ta đạt được trong quá trình xây dựng một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN với một số thể chế cơ bản của kinh tế thị trường đã được hình thành và phát triển là tiền đề cần thiết để chúng ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới tạo điều kiện cho ta tranh thủ ngoại lực, khai thác nhiều loại tiềm năng thông qua hợp tác đa dạng với thế giới nhằm phát huy những lợi thế của ta, thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ những công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh tiên tiến của thế giới để đầy mạnh CNH - HĐH, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện để bảo đảm an ninh quốc gia. An ninh kinh tế có ý nghĩa quyết định, đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia và độc lặp dân tộc. Kinh tế vững mạnh là tiền đề vật chết hàng đầu cần có cho ổn định chính trị trong nước. Kinh tế phát triển, tăng thu nhập ngân sách, tăng của cải vật chất, tăng GDP của đất nước thì Chính phủ mới có tiền để mua sắm vũ khí hiện đại tiên tiến, mới có điều kiện để chăm lo, nâng cao, cải thiện đời sống vật chất cho tất cả cán bộ, chiến sĩ, sĩ quan quân đội. Hội nhập kinh tế quốc tế làm cho ngày càng nhiều nước gắn bó lợi ích kinh tế với chúng ta. Các nhà đầu tư nước ngoài càng đầu tư nhiều vào làm ăn ở ta, thì lợi ích kinh tế vật chất của họ trên lãnh thổ ta càng lớn, do vậy họ sẽ không muốn đất nước ta rối loạn, mất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieuluan.doc