Mục lục
Mở đầu 3
I. Khái niệm 3
1. Dư luận xã hội là gi? 3
2. Truyền thông đại chúng là gì? 4
II. Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và truyền thông đại chúng 4
1. Truyền thông đại chúng tạo ra dư luận xã hội 4
1.1 Các mô hình ảnh hưởng 4
1.2 Cơ chế tác động của truyền thông đại chúng tới dư luận xã hội 5
2. Dư luận xã hội là nguồn cung cấp dữ liệu cho truyền thông đại chúng 6
2.1 Dư luận xã hội, nguồn sự kiện của truyền thông 6
2.2 Ý nghĩa của các cuộc điều tra dư luận xã hội đối với truyền
thông đại chúng 6
III. Thực trạng mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã
hội ở nước ta hiện nay 7
1.1 Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến dư luận xã hội 7
1.2 Ảnh hưởng của dư luận xã hội đến truyền thông đại chúng 9
IV. Giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội ở nước ta hiện nay 10
1. Vai trò của báo chí đối với việc phát huy sức mạnh của dư luận xã
hội 10
2. Sử dụng các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội trong lãnh đạo và
quản lý xã hội 10
3. Tạo lập bầu không khí tâm lý – xã hội lành mạnh 11
Kết luận 12
Chú thích 13
Tài liệu tham khảo 14
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19413 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mở đầu 3
I. Khái niệm 3
1. Dư luận xã hội là gi? 3
2. Truyền thông đại chúng là gì? 4
II. Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và truyền thông đại chúng 4
1. Truyền thông đại chúng tạo ra dư luận xã hội 4
1.1 Các mô hình ảnh hưởng 4
1.2 Cơ chế tác động của truyền thông đại chúng tới dư luận xã hội 5
2. Dư luận xã hội là nguồn cung cấp dữ liệu cho truyền thông đại chúng 6
2.1 Dư luận xã hội, nguồn sự kiện của truyền thông 6
2.2 Ý nghĩa của các cuộc điều tra dư luận xã hội đối với truyền
thông đại chúng 6
III. Thực trạng mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã
hội ở nước ta hiện nay 7
Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến dư luận xã hội 7
1.2 Ảnh hưởng của dư luận xã hội đến truyền thông đại chúng 9
IV. Giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội ở nước ta hiện nay 10
1. Vai trò của báo chí đối với việc phát huy sức mạnh của dư luận xã
hội 10
2. Sử dụng các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội trong lãnh đạo và
quản lý xã hội 10
3. Tạo lập bầu không khí tâm lý – xã hội lành mạnh 11
Kết luận 12
Chú thích 13
Tài liệu tham khảo 14
Mở đầu:
Mối quan hệ giữa dư luận xã hội (DLXH) và truyền thông đại chúng (TTĐC) là mối quan hệ có tính hai mặt. Thông thường, chúng ta hay nói đến tác động của TTĐC đến DLXH, coi DLXH như là sản phẩm của TTĐC. Tuy vậy, DLXH còn là nguồn cung cấp sự kiện cho hoạt động của TTĐC, là nguồn nguyên liệu phong phú của TTĐC. DLXH chính là hơi thở của cuộc sống mà các phương tiện TTĐC không thể bỏ qua. Tóm lại, TTĐC tạo ra DLXH nhưng DLXH là nguồn cung cấp sự kiện cho truyền thông. Để hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng, trước hết ta cần làm rõ các khái niệm DLXH và TTĐC.
I. Khái niệm
1. Dư luận xã hội là gi?
Cuộc tranh luận xung quanh khái niệm “dư luận xã hội” đã xuất hiện và kéo dài từ hơn hai trăm năm nay. Thuật ngữ này được nhà văn, nhà hoạt động nhà nước người Anh J. Solsbery sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 12[1]. Tuy nhiên, Jean-Jacques Pousseau, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháo mới được coi là người đầu tiên sử dụng nó vào năm 1744 theo nghĩa hiện đại. Sự tranh luận về khái niệm này diễn ra khá sôi nổi vào thời kỳ mà các cuộc cách mạng tư sản đang diễn ra, khi những quan điểm và hành động của con người ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình các cuộc cách mạng tư sản và trở thành nhân tố góp phần quyết định đến thắng lợi của giai cấp tư sản trẻ tuổi đối với giai cấp phong kiến. Theo Rútxô, một đại biểu của các nhà Khai sáng Pháp, cho rằng dư luận xã hội là sự đánh giá của xã hội về hoạt động của nghị viện hoặc của chính phủ. Trong tiếng Việt, DLXH còn được gọi theo những cách khác nhau bằng những thuật ngữ tương đương là công luận, dư luận công chúng, ý kiến công luận, ý kiến quần chúng. Thuật ngữ này xuất hiện rộng rãi trên một số ngành khoa học như chính trị học, triết học, xã hội học, tâm lý học xã hội…nhưng cho đến nay, vẫn “không có một định nghĩa được chấp nhận chung” [2]. Do đó, hiểu một cách chung nhất, DLXH là ý kiến còn lại sau quá trình thảo luận trao đổi trong xã hội. Nói cách khác, nó là kết quả của quá trình thảo luận xã hội. Nếu dựa vào các cách phân loại chủ thể và khách thể của DLXH, ta có thể hiểu DLXH là những thái độ, những cảm xúc, hay các ý tưởng của một bộ phận lớn người dân về những vấn đề công chúng quan tâm. Dưới sự lý giải của nhà truyền thông, “DLXH được cho là hiệu quả tức thì của truyền thông đại chúng. DLXH tích cực là một điều kiện dẫn đến ổn định chính trị xã hội. Từ DLXH sẽ dần dẫn đến các hành vi xã hội rộng lớn, tạo sức ép thúc đẩy, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội[3]. Truyền thông đại chúng (mass media) là kênh có vai trò quan trọng trong việc thảo luận xã hội vì nó có khả năng tập hợp, thu hút đông đảo công chúng tham gia.
2. Truyền thông đại chúng là gì?
Truyền thông là hoạt động truyền phát và trao đổi thông tin giữa người với người nhằm đạt được sự hiểu biết và tạo ra sự giao tiếp, liên kết xã hội[4]. Truyền thông đại chúng được hiểu là một quá trình truyền đạt thông tin đến các nhóm cộng đồng đông đảo trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, sách, phim, video, internet.
II. Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và truyền thông đại chúng:
1. Truyền thông đại chúng tạo ra dư luận xã hội:
1.1 Các mô hình ảnh hưởng:
Hiện nay có ba mô hình ảnh hưởng. Thứ nhất là mô hình ảnh hưởng mạnh (tiêu biểu là “Lý thuyết những viên đạn thần kỳ”), phổ biến vào những năm 20 đến 40 của thế kỷ trước. Theo đó, công chúng của TTĐC chỉ như những tấm bia thụ động, không thể chống lại được sức mạnh của truyền thông, hoàn toàn chấp nhận những điều phương tiện TTĐC chúng đưa ra. Năm 1960, Klapper đưa ra kết luận về “mô hình ảnh hưởng tối thiểu”. Ông cho rằng có rất ít bằng chứng thực nghiệm chứng tỏ rằng TTĐC có thể thay đổi niềm tin, thái độ và hành vi. Gần đây, các nhà nghiên cứu đề xuất “mô hình ảnh hưởng mạnh trong những điều kiện giới hạn”. Theo mô hình này, TTĐC chỉ có tác động mạnh đến những nhóm người nhất định, trong những hoàn cảnh cụ thể.
1.2 Cơ chế tác động của truyền thông đại chúng tới dư luận xã hội:
TTĐC có một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội hiện nay. Nó đã tăng cường và phát triển dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội; tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào các hoạt động quản lý xã hội, thông tin cho nhân dân về tình trạng của DLXH trên các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính cấp bách; tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hoạt động; hình thành DLXH về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của thực tế đó; xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng; điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, làm tăng cường tính tích cực chính trị - xã hội của quần chúng. Như vậy, bằng việc chọn lọc, nhấn mạnh, giải thích các sự kiện đặc biệt, cung cấp thông tin tới đối tượng tiếp nhận qua các kênh, khuyến khích dư luận đóng góp ý kiến, tiếng nói của cá nhân mình về các vấn đề đưa ra, TTĐC đã tác động vào DLXH bằng hai con đường: tình cảm và lý trí.
Việc truyền tải thông tin trên các phương tiện TTĐC đòi hỏi lương tâm của những người phát ngôn. Họ có quyền tự do báo chí song không vì thế mà cố ý gieo rắc những thông tin sai lệch làm tổn hại đến danh dự và nhân phẩn của cá nhân, kích động, gây thù hằn giữa các nước, dân tộc, tôn giáo, xâm phạm đời tư cá nhân…Việc một tờ báo Đan Mạch Jyllands-Posten đăng tải bức tranh biếm họa của nhà tiên tri Mohamed vào ngày 30-10-2005 là hành động đăng tin thiếu trách nhiệm vì nó đã làm bùng phát làn sóng phản đối trong thế giới Hồi giáo, khiến quan hệ giữa phương Tây với thế giới Hồi giáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng, biểu tình và bạo lực chết người cũng xảy ra khắp nơi. Những người chống đối bức tranh này cho rằng nó đã sỉ nhục và lăng mạ đạo Hồi. Tòa đại sứ của Đan Mạch tại một số nước đã bị phóng hỏa và hàng chục người đã bị thiệt mạng trong các cuộc biểu tình. Đặc biệt, rất nhiều người khi đó đã đòi tìm giết người họa sỹ vẽ bức tranh này.
2. Dư luận xã hội là nguồn cung cấp dữ liệu cho truyền thông:
2.1 Dư luận xã hội, nguồn sự kiện của truyền thông:
DLXH là nguồn tạo ra nội dung của TTĐC. TTĐC phản ánh về sự kiện, một vấn đề, biến nó từ cái ít được biết đến thành vấn đề mang tính xã hội. Khi DLXH hình thành thái độ của mình với một vấn đề xã hội đó, nó lại trở thành một “sự kiện” mà từ đó các phương tiện truyền thông có thể xây dựng nội dung. Việc phản ánh DLXH về vấn đề mà các phương tiện TTĐC đã đăng tải là hành động tiếp nối như một kỹ thuật truyền thông để “giữ” cho chủ thể không bị cạn nguồn thông tin.
2.2 Ý nghĩa của các cuộc điều tra dư luận xã hội đối với truyền thông đại chúng:
Thực hiện các cuộc trưng cầu dư luận là cách các hãng thông tấn lớn như BBC, CNN… hay dùng để tìm hiểu DLXH. Điều quan trọng nhất quyết định tính chân thực của công việc này chính là cách chọn mẫu mà các cuộc nghiên cứu đã sử dụng. Trong cuộc điều tra khoa học, người tổ chức sẽ xác định, tìm kiếm người khảo sát và thẩm định độ tin cậy của các thông tin thu được. Vì thế, những kết quả này có thể dùng để suy ra cho một tổng thể rộng hơn số lượng mẫu đã điều tra. Người làm TTĐC luôn phải tỉnh táo phân biệt các cuộc điều tra khoa học với các cuộc thăm dò ý kiến phi khoa học. Các cuộc trưng cầu dư luận giả hiệu, phi khoa học khá phổ biến và cho dù đôi khi chúng khá thú vị, nhưng chúng không bao giờ cung cấp thông tin cho những phóng sự nghiêm túc[5] vì chúng chỉ phản ánh ý kiến của bản thân nhóm người tham gia trả lời.
III. Thực trạng mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội ở nước ta hiện nay:
Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến dư luận xã hội:
Các phương tiện TTĐC hướng sự chú ý của DLXH đến một số vấn đề được coi là cốt yếu. Việc xác định tầm quan trọng của những vấn đề này dựa vào chủ định của các hãng truyền thông nhưng cũng có thể do đòi hỏi của chính DLXH. Truyền thông có thể giúp hình thành một ý, quan điểm mới, củng cố những quan điểm đang định hình và thay đổi những quan điểm đã định hình, phá vỡ những thành kiến. Tuy nhiên, phá vỡ những khuôn mẫu tư duy và định kiến của DLXH không bao giờ là công việc đơn giản. Để có được những sự thay đổi này, hoạt động truyền thông cần được tiến hành trong bối cảnh có những thay đổi về chuẩn mực xã hội liên quan.
Ngày 15-1-2008, Chương trình Thời sự 19h của VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam đưa tin nạn bạo hành trẻ em tại lớp trông trẻ tư thục tại số 1/2 P.Quyết Thắng, TP Biên Hòa, Đồng Nai. Người được gọi là "bảo mẫu" hành hạ, đánh chửi, nhiếc mắng vô cùng thậm tệ những đứa trẻ mới chỉ mười mấy tháng tuổi. Mặc dù sự việc nghiêm trọng trên đã xảy ra trong một thời gian dài, những hành động dã man trên của bà Hoa đã bị người dân sống quanh đây phát hiện nhưng các cơ quan chức năng từ phường đến phòng giáo dục thành phố vẫn không vào cuộc ngay. Phóng sự này đã gây xôn xao, khiến hàng triệu bậc cha mẹ, khán giả truyền hình đã vô cùng căm phẫn trước hành động đánh đập trẻ em nhẫn tâm của Bà Hoa. Đến 3h chiều 16-1-2008, cơ quan điều tra sẽ có cuộc họp với Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Biên Hòa để đưa ra hướng xử lý đối với bà Hoa. Ngày 17-1-2008, kẻ bạo hành trẻ em đã bị bắt giữ và lĩnh án 18 tháng tù. Ngay sau sự kiện này, các bậc phụ huynh đã phải cân nhắc nhiều hơn đến việc gửi con ở các cơ sơ trông trẻ tư nhân cùng với đó trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng đối với nhiều địa điểm nhân trông giữ trẻ đã được quan tâm hơn.
Tình trạng tham nhũng – một trong những quốc nạn làm nhức nhối dư luận xã hội – là giặc nội xâm phá hoại từ bên trong, là đồng minh của giặc ngọai xâm có thể làm đổ vỡ sự nghiệp cách mạng[6]. Thực tế cho thấy, mỗi ngày, trên các phương tiện truyền thông đại chúng hầu như đều xuất hiện những bài viết, những chương trình nói về tham nhũng. Các phương tiện truyền thông đại chúng là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhân dân là “tai mắt”, là nguồn cung cấp thông tin sống động về mọi mặt cho các kênh thông tin này. Thông tin báo chí là một trong năm nguồn để các cơ quan hình sự khởi tố vụ án. Điều này cho thấy vai trò hết sức quan trọng củacác phương tiện tuyền thông đại chúng trong việc tạo lập và thể hiện dư luận xã hội. Không thể phủ nhận được hiện nay, các phương tiện truyền thông đi đầu trong phát hiện, đưa lên mặt báo những họat động tham nhũng.
Một trong những ví dụ điển hình cho vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, có thể kể đến sự kiện “nước bẩn” ở TP.HCM ở những ngày đầu tháng 9/2005 vừa qua. Bắt đầu là những thông tin người dân phản ánh liên tục trên các trang mục “Chúng tôi có ý kiến” của báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên… phản ánh tình trạng nước sinh họat của người dân bị nhiễm bẩn, không thể sử dụng được. Từ những thông tin ban đầu, nhà báo đã vào cuộc. Thông qua hàng lọat các bài điều tra, các chương trình truyền hình tìm hiểu nguyên do nước bẩn để có những giải thích trước công chúng…, vấn đề “tại sao nước bẩn” đã được đặt trên bàn dư luận. Sức ép của dư luận sau các bài điều tra đã bắt buộc các cơ quan có thẩm quyền phải xử lý việc thiếu trách nhiệm của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn (Sawaco) cũng như của Trung tâm Y tế dự phòng TP.HCM. Điều này cho thấy, các phương tiện truyền thông đã tác động lên các thiết chế xã hội. Với chức năng của mình, truyền thông đại chúng đã góp phần lớn vào kiểm sóat xã hội và đề xuất các phương án hành động thông qua dư luận.
1.2 Ảnh hưởng của dư luận xã hội đến truyền thông đại chúng:
Thứ nhất, nhiều khi, sức mạnh của TTĐC khiến nó đi quá xa so với những suy tính ban đầu của các nhà truyền thông. Trong những trường hợp đó, TTĐC phải chạy theo dư luận xã hội để khống chế nó. Những hậu quả có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Nó tiêu cực ở chỗ, lúc này DLXH có thể phá hoại và làm tổn hại lớn cho cá nhân và xã hội. Thí dụ năm 2005, Đài truyền hình Việt Nam (ĐTTVN) có đưa tin về một giáo viên ở Gia Lâm Hà Nội bị công an bắt về hành vi lừa đảo để vay hàng trăm triệu đồng của một chi nhánh ngân hàng Phương Nam. Thế nhưng sau khi đưa tin này rất nhiều người đã vội vàng đến các chi nhánh của ngân hàng Phương Nam để rút tiền, khiến cho ngân hàng đứng trước một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Trước tình hình đó, ĐTHVN đã phải có những phóng sự tiếp theo để nói rõ, nhờ đó đã tránh được những hậu quả khủng khiếp từ bản tin nọ.
Thứ hai, dưới sức ép của DLXH nhiều khi các phương tiện TTĐC buộc phải thay đổi, điều chính hoặc đính chính những nội dung đã phát, đã công bố. Trong số báo ra ngày 12/4, Moskovski Korrespondent đã khiến báo giới cũng như dân chúng Nga phải sửng sốt về vị Tổng thống mà họ vô cùng ngưỡng mộ. Theo đó, vị Tổng thống sắp mãn nhiệm vào tháng 5 tới đã bí mật ly dị vợ, bà Lyudmila vào tháng 2 vừa qua để "dọn đường" cho cuộc hôn nhân mới với nữ VĐV xinh đẹp Alina Kabayeva(năm nay mới 24 tuổi), người đã từng là vô địch Olympic Athens môn thể dục dụng cụ vào tháng 6 tới. “Chẳng có một tý sự thật nào trong bài báo đó”, Putin nói về thông tin trên tờ Moskovsky Korrespondent. "Tôi thường phản ứng tiêu cực trước những kẻ hay chõ mũi và có những suy diễn hoang tưởng về cuộc sống của người khác", ông chủ Kremlin cho biết. Văn phòng của cô Kabayeva cho biết cô không có bình luận gì trước tin đồn này. Một phát ngôn viên của Kabayeva trước đó cho hay thông tin của báo chí về chuyện yêu đương với tổng thống là "rác rưởi". Trong số báo ra hôm nay, 18/4, tại trang 2, Moskovski Korrespondent đã chính thức nói lời xin lỗi về bài báo gây dư luận ra ngày 12/4: "Trong số báo ra ngày 12/4 có đăng tin Tổng thống Putin sắp kết hôn cùng nữ VĐV Alina Kabayeva, nhưng đây là thông tin không có cơ sở". "Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì bài báo đã gây nên những hiểu lầm, ảnh hưởng không tốt tới các bên liên quan. Chúng tôi thành thật xin lỗi về việc này".
IV. Giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội ở nước ta hiện nay:
Để nâng cao tiếng nói của DLXH ở nước ta hiện nay, nhất là nhằm phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân, ta có một số giải pháp:
1. Vai trò của báo chí đối với việc phát huy sức mạnh của dư luận xã hội
Muốn dân biết thì phải cung cấp thông tin cho dân, thông tin phải trugn thực, kịp thời, phải thực hiện công khai, có công khai mới có dân chủ. Công khai là một yêu cầu tất yếu, một biểu hiện quan trọng của nền dân chủ XHCN. Mọi công việc của đất nước liên quan đến lợi ích của nhân dân, mà việc công khai không phương hại gì đến lợi ích quốc gia, thì dân phải được biết. Người dân có quyền được cung cấp thông tin, để họ đánh giá tình hình và biểu thị thái độ của họ trong quá trình hình thành và thể hiện DLXH. Việc cung cấp thông tin cho dân biết là để thực hiện tính công khai “nói rõ sự thật”. Chỉ bằng cách đó, thì sự đánh giá xã hội cảu DLXH mới phản ánh đúng tình trạng xã hội về những vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung.
2. Sử dụng các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội trong lãnh đạo và quản lý xã hội
DLXH là một hiện tượng tinh thần xã hội có thể “đo đac” được bằng các phương pháp khoa học. Do có thể “đo đạc” được, dư luận xã hội là các thông tin không chỉ rõ ràng dưới góc độ định tính mà còn rõ ràng dưới góc độ định lượng. Nhờ có các thông tin toàn diện như vậy, chúng ta mới có thể đánh giá đúng thực trạng, tư tưởng cảu xã hội. Nhân dân có ủng hộ các chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước hay không? Bao nhiêu % ugnr hộ, bao nhiêu % bi quan…, đều có thể “đo đạc” được bằng các cuộc thăm dò dư luận xã hội. Nhờ kết quả của các cuộc điều tra DLXH nhằm đánh giá tình hình tâm trạng, tư tưởng sẽ bớt đi tính mơ hồ của các nhận định chung chung. Các dữ liệu của các cuộc điều tra DLXH là các cơ sở khách quan giúp viết báo cáo đưa ra những nhận định khách quan sâu sắc về tình hình tâm trạng, tư tưởng trong xã hội
3. Tạo lập bầu không khí tâm lý – xã hội lành mạnh
Bầu không khí tâm lý xã hội được hình thành từ mối quan hệ giữa người với người, vì vậy nó có ảnh huongr trực tiếp tới tính tích cực hoạt động của họ. Trong bầu không khí tâm lý xã hội thuận lợi, như mọi người đều sống hòa thuận, thân ái, thẳng thắn, trung thực… sẽ tạo ra tâm trạng phấn khởi, vui vẻ; tính tích cực hoạt động của con người sẽ luôn được khơi dậy, được nuôi dưỡng và phát huy. Ngược lại, sống trong bầu không khí tâm lý xã hội nặng nề, sầu não, tính tích cực hoạt động cảu con người sẽ bị dồn nén, tạo ra những cảm xúc, tâm trạng tiêu cực như buồn chán, thù hận, thậm chí mất niềm tin. Để tạo lập bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh làm tiền đề, điều kiện cho dư luận xã hội phát huy vai trò tích cực, ta cần thực hiện các giải pháp sau. Một là, cần lựa chọn người lãnh đạo tập thể có những phẩm chất và năng lực cần thiết, có uy tín cao, có phong cách làm việc phù hợp. Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các cá nhân trong tập thể với nhau. Ba là, tăng cường các biện pháp giáo dục, xây dựng tập thể lành mạnh.
Kết luận:
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ qua lại với nhau. Chưa bao giờ dư luận xã hội ở nước ta lại chủ động tích cực tham gia vào quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như ngày nay. Bằng nhiều hình thức phong phú, quần chúng nhân dân đã công khai bày tỏ quan điểm, thái độ và chính kiến của mình đối với các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống hàng ngày. Trong quá trình ấy, nhiều sáng kiến được đưa ra, nhiều giải pháp, kiến nghị đề xuất với cơ quan lãnh đạo các cấp góp phần tháo gỡ những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Thời gian qua, DLXH hình thành trong các tầng lớp nhân dân đã sớm lên tiếng kêu gọi mọi người hãy kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống sử dụng các ấn phẩm văn hóa độc hại. Đặc biệt, trước thái độ chính trực của quần chúng nhân dân, nhiều cán bộ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, trong các tổ chức kinh tế đã không thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật. Tất cả những kết quả có được ở trên có phần đóng góp rất lớn của truyền thông đại chúng
Chú thích
[1] N. Mansurov. Bài giới thiệu. Trong bản tiếng dịch Nga của cuốn “Dư luận Xã hội – Sự mở ra của vòng xoáy im lặng”, Noelle-Neumman, NXB Progress-Academia, Mátxcơva, 1996, tr.7
[2] Trong mục nghiên cứu dư luận xã hội, chuẩn bị cho cuốn từ điển bách khoa quốc tế về các ngành khoa học xã hội (International Encyclopedia of the Social Sciences), 1968
[3] Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Trần Ngọc Tăng, NXB Chính trị quốc gia, 2001
[4] Thuật ngữ báo chí truyền thông, Phạm Thành Hưng, NXB Đại học Quốc gia
[5] Theo Sheldon R. Gawiser và G. Evans Witt, Hội đồng Quốc gia về Điều tra Dư luận Xã hội Hoa Kỳ
[6] Lời phát biểu của thượng tướng Nguyễn Văn Rinh – thứ trưởng Bộ Quốc Phòng khi trả lời báo “Pháp Luật Việt Nam” ngày 12-7-2005 trong bài “Nhận diện tình trạng tham nhũng”Tài liệu tham khảo:
Xã hội học về Dư luận xã hội – Nguyễn Quý Thanh – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới – PTS. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) – NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội 1999
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và truyền thông đại chúng.doc