Biểu tượng là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật đó sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những hình ảnh, ấn tượng này đậm nét và sâu sắc đến mức nó có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Giống với tri giác, biểu tượng cũng dừng lại những biểu hiện bề ngoài. Song, khác với tri giác là biểu tượng xuất hiện khi không còn tiếp xúc trực tiếp với sự vật nữa nên nó có những biến đổi nhất địng so với tri giác. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự tưởng tượng mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và nghệ thuật. Biểu tượng tuy còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp có thể xem biểu tượng như là hình thức, trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ trực quan sinh động sang tư duy trừu tượng
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7469 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa nhận thức con người - Con đường biện chứng của nhận thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề thế giới, ý thức về cơ bản là kết quả của quá trình nhận thức thế giới. Thế giới vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người tác động vào các giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức.
Con người là chủ thể tích cực sáng tạo và có ý thức nhận thức cải tạo thế giới. Chủ thể là sản phẩm có tính lịch sử, xã hội nó kế thừa tri thức của thế hệ trước đồng thời sử dụng phương tiện nhận thức xã hội tạo ra. Do đó, khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức......đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến quá trình nhận thức.
Còn khác thể nhận thức là một bộ phận của thế giới khách quan mà nhận thức hướng tới nắm bắt, phản ánh nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy, khách thể thể không đồng nhất với hiện thực khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tùy theo sự phát triển của nhận thức. Như vậy, không chỉ có chủ thể nhận thức mà cả khách thể nhận thức cũng mang tính lịch sử xã hội. Trong quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì khách thể bao giờ cũng giữ vai trò quyết định bởi vì nó quyết định nội dung tri thức của nhận thức. Tuy nhiên chủ thể vẫn có tác động tích cực đến khách thể vì sự phản ánh của chủ thể là sự phản ánh có sáng tạo, có mục đích, có chọn lọc nhằm phục vụ sự vật và thực tiễn.
Ba là nhận thức không phải là một hành động tức thời giản đơn, máy móc và thụ động mà là quá trình sáng tạo dựa trên hoạt động thực tiễn. Có thể nói quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy :"trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn thế nào".
Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sữ - xã hội.
2). Thực tiễn là gì? Có vai trò như thế nào đối với nhận thức
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ là của lý liận nhận thức Mác-xít mà còn là của toàn bộ triết học Mác - Lênin.
Các nhà duy vật trước Mác đã không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Còn một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động sáng tạo trong hoạt động con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trước Mác, Các Mác và Ph.Ăng-ghen đã đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét:"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Vậy thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Con người với vai trò là chủ thể nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Bằng hoajt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất con người đã tạo ra những sản phẩm vốn không có sẵn trong thiên nhiên. Không có hoạt động đó con người không thể tồn tại và phát triển được. Từ cộng động người nguyên thủy, con người đã trải qua một quá trình lao động để tồn tại và dần đưa xã hội tiến hóa đi lên với sự nhận thức ngày càng mở rộng về thế giới vật chất. Vì thế có thể nói rằng thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người. Thực tiễn với bản chất là hoạt động vật chất trong đó chủ thể với tính tích cực sáng tạo chủ động làm biến đổi khách thể.
Về thực tiễn, Lênin viết :"Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểm không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp". Thực tiễn cao hơn hoạt động nhận thức bởi vì cái phổ biến trong nhận thức trước hết được rút ra trong thực tiễn và phải qua thực tiễn kiểm nghiệm thì mới xác định được đúng hoặc sai. Hơn nữa, thực tiễn sẽ bổ sung làm phong phú thêm tính phổ biến của nhận thức. Với tư cách là hiện thực trực tiếp, thực tiễn sẽ nghiêm khắc đánh giá sự đúng sai của một lý luận nào đó.
Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ của con người. Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người. Về mặt nội dung, tính chất cũng như về phương thức thực hiện của nó đều phụ thuộc vào điều kiện lịch sử nhất định, do đó thực tiễn có tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động. Bất kỳ quá trình hoạt động thực tiễn nào cũng gồm những yếu tố như : nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó liên hệ với nhau, qui định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể diễn ra được.
Thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau đây: dạng cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động lao động sản xuất vật chất. Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn, tồn tại của động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Ngoài ra, với sự ra đời và phát triển của xã hội, một dạng cơ bản nữa của thực tiễn cũng xuất hiện - đó là hoạt động thực nghiệm khoa học. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Vì thế vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết là cơ sở và động lực của nhận thức. Là điểm xuất phát của nhận thức, là mục đích và động lực. Mọi lý luận, mọi học thuyết đều hình thành từ hoạt động thực tiễn, Ph.Ăng-ghen khẳng định:" chính việc người ta biến đổi giới tự nhiên chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên là cơ sở chủ yếu nhất và thực tiễn nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên" . Con người quan hệ với tự nhiên không bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính những qui luật để con người nhận thức chúng. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức phát triển. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa.......để phản ánh bản chất, qui luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng làm thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn không chỉ đặt ra nhu cầu cho nhận thức mà còn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của tri thức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi cả bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới làm phong phú và sâu sắc nhận thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu của cuộc sống và thực tiễn, nhu cầu của hoạt động sản xuất và cải biến xã hội đòi hỏi con người phải có thêm những hiểu biết tri thức mới. Nó đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Đơn cử một ví dụ về một môn khoa học phổ biến là toán học. Toán học cũng như các môn khoa học khác cũng đã nảy sình từ nhu cầu thực tiễn."Từ sự đo đạc diện tích và sự đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí. Hay các học thuyết xã hội ra đời trên cơ sở và nhu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp công nhân".
Ngoài ra, thông qua thực tiễn các giác quan con người ngày càng hoàn thiện, khả năng phản ánh ngày càng được nâng lên. Thực tiễn còn tạo ra những phương tiện hiện đại (như kính thiên văn, kính hiển vi điện tử, máy vi tính, tàu vũ trụ,.....) giúp con người ngày càng đi sâu vào các bí mật tự nhiên.
Tiếp theo thực tiễn là mục đích của nhận thức. Thực tiễn suy đến cùng không phải để hiểu biết mà phục vụ cho con người, thực tiễn cải tạo thế giới. Sự hình thành, phát triển của nhận thức như trên đã nói là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn. Điều đó cũng nói lên rằng, nhận thức chỉ hoàn thành chức năng của mình khi nó trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Trong thực tế đã chứng minh rằng lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẽ và phức tạp đòi hỏi sự nhận thức phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu đó. Chẳng hạn đó là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và chỉ có thông quan thực tiễn thì trí thức của con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Những tri thức về tự nhiên xã hội của con người không phải đều là đúng, không phải tất cả đều chân lý. Tiêu chuẩn để kiểm tra, phân biệt đúng hay sai lại chính là hoạt động thực tiễn.
Tóm lại: Thực tiễn là cơ cở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý. Đây là quan điểm hết sức quan trọng của lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Lênin vết:"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức". Vì thế chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Một mặt thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Mặt khác trong lịch sử phát triển kỹ thuật, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, thực tiễn không đứng yên một chỗ mà biến đổi nên vấn đề nhận thức cũng được đặt ra và giải quyết một cách khác nhau. Trong quá trình phát triển nhận thức và thực tiễn, những tri thức đạt được trước kia vẫn thường xuyên kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo và được sữa chữa, bổ sung hoàn thiện hơn. Chẳng hạn những vấn đề từ trước đến nay của đất nước ta như : kinh tế thị trường là gì? kinh tế thị trường ở Việt Nam có đặc điểm gì? Quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam diễn ra như thế nào?....Để nhận thức những vấn đề đó, một mặt chúng ta phải kiểm nghiệm thực tế nước ta, mặt khác chúng ta phải nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác.
Nghiên cứu lý luận phải liên hệ thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
3). Con đường biện chứng của quá trình nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động và phát triển. Sự vận động, phát triển nhận thức diễn ra một cách biện chứng, được Lênin miêu tả như sau :"Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý, sự nhận thức khách quan".
Trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn là ba yếu tố của cùng một quá trình thống nhất, song không nên hiểu các yếu tố ấy tách rời nhau mà phải hiểu chúng trong mối liên hệ biện chứng. Cả khi sáng tạo ra lý luận con người phải quay về với trực quan sinh động và trong giai đoạn cảm tính ấy có sự tham gia của tư duy, còn yếu tố thực tiễn quán triệt suốt quá trình.
a./ Trực quan sinh động: (hay còn gọi là nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ bên ngoài của sự vật trực tiếp vào các giác quan. Giai đoạn này được thể hiện dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào giác quan con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người gây nên cảm giác (chẳng hạn những cảm giác về màu sắc, mùi vị, âm thanh, nhiệt độ). Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người. là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Cảm giác có vai trò to lớn trong nhận thức, mang lại những tài liệu ban đầu cho quá trình nhận thức. Tất cả các hĩnh thức tiếp theo đều dựa trên tài liệu cảm giác mang lại.
Tri giác là một hình thức cơ bản của nhận thức và được hình thành trên cơ sở tổng hợp các cảm giác về một sự vật. Cũng như cảm giác, tri giác phản ánh sự vật một cách trực tiếp bề ngoài thông qua các giác quan. Song tri giác cao hơn cảm giác là nó không phản ánh sự vật từng mặt riêng lẽ mà phản ánh sự vật trong một chỉnh thể, trong tính toàn vẹn của nó. Do vậy, tri giác đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng là hình thức cao nhất của nhận thức cảm tính. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật đó sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những hình ảnh, ấn tượng này đậm nét và sâu sắc đến mức nó có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Giống với tri giác, biểu tượng cũng dừng lại những biểu hiện bề ngoài. Song, khác với tri giác là biểu tượng xuất hiện khi không còn tiếp xúc trực tiếp với sự vật nữa nên nó có những biến đổi nhất địng so với tri giác. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự tưởng tượng mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và nghệ thuật. Biểu tượng tuy còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp có thể xem biểu tượng như là hình thức, trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ trực quan sinh động sang tư duy trừu tượng.
Cảm giác, tri giác và biểu tượng là các hình thức khác nhau của trực quan sinh động. Đây là giai đoạn phản ánh sự vật trực tiếp nên nhận thức bắt đầu từ đó. Nó đưa sự vật hiện ra với chúng ta dưới hình thức cụ thể sinh động, ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Song trực quan sinh động chỉ phản ánh được cái bên ngoài, từng mặt, từng khía cạnh của sự vật riêng lẽ, chứ không vạch ra được cái bản chất bên trong. Nếu dừng lại ở đây thì ta chưa có thể phản ánh được bản chất qui luật vận động, phát triển của sự vật và sẽ không chỉ đạo được thực tiễn cải tạo thế giới. Tài liệu cảm tính tích lũy đến một trình độ nhất định thì nhận thức sẽ chuyển lên một trình độ cao hơn, đó là tư duy trừu tượng.
a./ Trực quan sinh động: (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại. Tư duy trừu tường cũng phản ánh hiện thực khách quan, nhưng lại sự phản ánh gián tiếp, khái quát, đi sâu vào mối liên hệ bản chất, tất nhiên vào qui luật vận động, phát triển của sự vật. Lênin đã nói :"nó đã phản ánh hiện thực khách quan sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn". Như vậy, tư duy trừu tượng giúp chúng ta có thể mở rộng tri thức và khái quát hiện thực khách quan một cách hiện thực hơn, toàn diện hơn và bản chất hơn. Do đó xét về góc độ này thì tư duy trừu tượng gần với hiện thực, chân lý hơn. Tư duy trừu tượng được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính chung, bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó dựa trên cơ sở khái quát tài liệu do giai đoạn nhận thức cảm tính mang lại. Chẳng hạn khái niệm "vật chất" phản ánh thuộc tính chung bản chất khác căn bản so với ý thức là thực tại khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và ý thức là chụp lại, chép lại, phản ánh thực tại đó. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Khái niệm có tính khách quan bởi chúng phản ánh những m,ối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Lênin đã chỉ rõ: "Những khái nhiệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng nguồn gốc". Các khái niệm không tách rời, cô lập nhau mà giữa chúng có liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau và không ngừng biến đổi, phát triển. Vì hiện thực khách quan luôn vận động và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất biến mà phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của khái niệm gắn liền với phát triển của thực tiễn và nhận thức của con người, nó giúp cho con người phản ánh ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về sự vật. Khái niệm vừa là hình thức cơ bản, vừa là nền tảng của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là phải bắt đầu từ khái niệm.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng địng và phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán là một hình thức liên kết các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các mặt bên trong bản thân sự vật hay giữa các sự vật, các hiện tượng trong ý thức con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái nhiệm tạo thành mà lá quá trình biện chứng trong đó các khái nhiệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Tùy theo góc độ khác nhau mà người ta chia phán đoán ra nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào việc thừa nhận hay không thừa nhận một thuộc tính nào đó của sự vật người ta chi ra phán đoán khẳng địng (Trường điện từ là một dạng vật chất) và phán đoán phủ định (cá voi không phải là loài cá).
Ngoài ra theo mức độ phản ánh có thể chia các phán đoán thành: phán đoán đơn nhất (ma sát sinh ra nhiệt) phán đoán đặc thù (mọi vận động cơ giới đều có thể biến thành nhiệt bằng cách ma sát), phán đoán phổ biến bất cứ hình thức vận động nào, tùy theo những điều kiện nhất định của mỗi trường hợp, đều có thể và nhất thiết phải chuyển hóa thành hình thức vận động khác.
Khác với khái niệm phản ánh các thuộc tính chung, bản chất của sự vật hiện tượng còn phán đoán phản ánh những mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng và các mặt của chúng. Cho nên phán đoán là một hình thức biểu đạt các qui luật khách quan. Về mặt hình thức, phán đoán thường được biểu hiện một câu hoặc một mệnh đề theo những qui tắc văn phạm nhất định gồm ba bộ phận: chữ từ , hệ từ, vị từ.
Suy luận là một hình thức tư duy trừu tượng dựa trên cơ sở, phán đoán đã có làm tiền đề và mối liên hệ lẫn nhau giữa các phán đoán đã có làm tiền đề và mối liên hệ lẫn nhau giữa các phán đoán đã có để đi đến phán đoán mới (phán đoán kết luận).
Thí dụ từ hai phán đoán làm tiền đề:"Mọi kim loại đều dẫn điện" và "Đồng là kim loại" đi đến phán đoán mới (phán đoán kết luận), "Đồng dẫn điện".
Nói một cách khác suy luận là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề. Vì thế tính chân thực của các phán đoán tiền đề với việc thực hiện đúng qui tắc logic của suy luận đảm bảo cho tính kết luận suy ra một cách chính xác.
Nếu như phán đoán là sự liên hệ các khái niệm thì suy luận là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy luận là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ có suy luận mà con người ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn, hiện thực khách quan và dự đoán được xu hướng vận động, phát triển của sự vật.
Suy luận có hai loại: suy luận diễn dịch và suy luận qui nạp
Đến đây một vấn đề nữa là phải được nhắc tới đó là sự thống nhất của trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng có quan hệ với nhau như thế nào? Vai trò của từng giai đoạn nhận thức ra sao? Trong lịch sử triết học khi giải quyết những vấn đề đó thường có hai khuynh hướng cực đoan. Có những ý kiến đề cao vai trò của nhận thức cảm tính mà hạ thấp nhận thức lý tính và ngược lại. Tuy có những yếu tố hợp lý nhất định, song cả hai khuynh hướng trên đây đều phiến diện, đều không thấy được sự thống nhất biện chứng giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức. Như vậy, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai mức độ khác nhau của một quá trình. Tuy có sự khác biệt về vị trí và mức độ phản ánh, nhưng giữa chúng có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, chúng đều ở trong một quá trình thống nhất biện chứng trong một mối liên hệ không tách rời nhau. Mối liên này được qui định một cách khách quan: trước hết cả hai giai đoạn nhận thức này đều nhằm một mục đích phục vụ cho việc nhận thức ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn. Chúng đều cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần kinh của con người và đều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn xã hội. Hai là: nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể hiểu được bản chất sâu xa của sự vật, không hiểu được mối liên hệ nội tại bên trong sự vật. Ngược lại nhận thức lý tính không thể có được nếu không có nhận thức cảm tính. Nhận thức bắt đầu từ trực quan sinh động nhưng nó không dừng lại ở trực quan sinh động mà nó phải phát triển lên tư duy trừu tượng để đi sâu vào bản chất vào qui luật vận động, phát triển của sự vật. Và tư duy trừu tượng lại phải dựa trên cơ sở các tài liệu do trực quan sinh động mang lại. Các tài liệu đó càng phong phú nhiều mặt bao nhiêu thì càng giúp cho tư duy trừu tượng đúng đắn sâu sắc bấy nhiêu. Nhận thức của con người là nối tiếp lẫn nhau, kế thừa lẫn nhau cho nên giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng có sự đan xem lẫn nhau. Trong giai đoạn trực quan sinh động cũng có sự tham gia của tư duy giúp cho các tài liệu thu thập được đầy đủ hơn, chính xác hơn. Nhưng tư duy trừu tượng phải luôn luôn trên nền tảng của tài liệu do trực quan mang lại. Nhận thức của con người vận động, phát triển từ trực quan sinh động đến tư duy là tất yếu.Bước chuyển từ giai đoạn cảm tính sang giai đoạn lý tính được thực hiện một cách biện chứng, đó là kết quả của một bước nhảy vọt biện chứng, đưa đến một sự thay đổi căn bản về chất lượng trong sự nhận thức về thế giới.
Tuy nhiên nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trừu tượng chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức là rất quan trọng đã được nêu ra, do đó chúng ta có thể thấy được nhận thức phải quay về với thực tiễn. "Từ tư duy lý luận đến thực tiễn" đây là bước đi quyết định trong vòng khâu nhận thức. Mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn là mâu thuẫn cơ bản nhất, quan trọng nhất chi phối toàn bộ quá trình nhận thức. Mâu thuẩn này thường xuyên xuất hiện và không ngừng được giải quyết trong quá trình con người đi đến chân lý. Mâu thuẩn giữa lý luận và thực tiễn biểu hiện gây gắt nhất vào lúc hoạt động xã hội - lịch sử của con người đã tiến lên quá xa tới mức nó không chịu sự chỉ đạo của những lý luận đã lỗi thời. Nó đặt ra trước khoa học những nhiệm vụ mới trong lĩnh vực phát triển lý thuyết sao cho những lý thuyết mới này đáp ứng đầy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TIEU LUAN 2.doc