1.2. Đặc điểm của thuế
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với các công cụ khác. Những đặc trưng đó là:
*Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang
tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi
quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang tính hình phạt.
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.
16 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận môn Phân tích chính sách thuế chính sách thuế và vấn đề tăng trưởng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uế và lệ phí. Lệ phí được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Hệ thống thuế ở Việt Nam 1.3. Hệ thống thuế tại Việt Nam
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có
mỗi quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của nhà nước trong từng thời kỳ.
2. Chức năng – vai trò của thuế đối với nền kinh tế
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và nó có tính ổn định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển thuế luôn luôn thực hiện hai chức năng cơ bản sau:
2.1. Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện đông viên nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức năng này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
2.2. Chức năng điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử dụng linh họat các ưu đãi và miễn giảm thuế. Trên cơ sở đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra những điều kiện để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của thuế cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách thuế ở mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý đến mỗi quan hệ giữa chức năng điều tiết kinh tế và chức năng huy động nguồn tài chính của thuế.
II. Tăng trưởng kinh tế bền vững và các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế bền vững
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
1.2. Tăng trưởng kinh tế bền vững?
Tăng trưởng kinh tế bền vững là khái niệm hiện đại để xác định mục tiêu và
các nhân tố tốt cho một nền kinh tế nhờ tăng trưởng bền vững. Theo đó, tăng trưởng không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba nhân tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập cần phải gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững.
Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện
biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình
trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài
nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị
hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra
những thiên tai vô cùng thảm khốc. Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp
với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể
là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn;
tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng
kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách
hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều
này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên,
quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn
thế giới.
2. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế bền vững
Dựa vào khái niệm trên ta nhận thấy, tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu chung của tất cả các nước trên thế giới. Nếu như các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế bao gồm các nhân tố làm tăng chỉ số cơ học cụ thể sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Các nhân tố tác đông đến tăng trưởng kinh tế bền vững mang ý nghĩa nội hàm của các quốc gia nhiếu hơn như bảo vệ môi trường, dựa vào sức mạnh nội tại, bình đẳng trong thu nhập, xác lập một thị trường lao động thống nhất xây dựng một hệ thống an sinh xã hội lành mạnh.
III. Chính sách thuế và vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững
Thuế với các đặc điểm của mình và chức năng chính là công cụ của nhà nước để thực thi các mục tiêu và chính sách góp phần không nhỏ cho mục tiêu lớn là tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong hai mươi năm thực hiện đổi mới, hệ thống thuế đã có nhiều cải cách lớn, đã được đổi mới khá căn bản và trở nên ngày càng hoàn thiện hơn trên tất cả các mặt chính sách thuế, tổ chức bộ máy thu thuế và công tác quản lý hành chính thuế.
Hiện nay, hệ thống thuế đã chuyển hẳn từ một hệ thống thu ngân sách trong kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không dựa trên nền tảng thuế, sang thu ngân sách dựa vào các luật thuế; đã xây dựng được một hệ thống thuế thống nhất, bao gồm khá đầy đủ các sắc thuế cần thiết để điều tiết các hoạt động kinh tế cần điều tiết qua thuế. Hiện nay hệ thống thuế đã hình thành tương đối đầy đủ các sắc thuế cần thiết của một hệ thống thuế hiện đại từng bước phù hợp với kinh tế thị trường. Trong đó các sắc thuế gián thu, đánh vào tiêu dùng đã được chú trọng hoàn chỉnh hơn các sắc thuế trực thu cho phép khai thác được ưu điểm dễ thu của thuế gián thu, góp phần thu ngân sách nhà nước.
Trong điều tiết vĩ mô, câc cuộc cải cách đã đưa thuế trở thành một trong những công cụ điều tiết vĩ mô sắc bén đối với nền kinh tế- xã hội, được Bộ Tài chính và Nhà nước tích cực sử dụng nhằm góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn thu giải quyết các vấn đề về xã hội, quốc phòng và an ninh. Dưới góc độ hội nhập quốc tế, cải cách thuế đã có bước tiến hòa nhập với môi trường thuế quốc tế, ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần; xây dựng và thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế về thuế khi tham gia AFTA, WTO...
1. Thuế và bảo vệ môi trường.
Thuế môi trường là khoản thu của ngân sách nhà nước, nhằm điều tiết các hoạt động có ảnh hưởng tới môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Mục tiêu của thuế môi trường. Mục tiêu của thuế môi trường là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước lấy từ người gây ô nhiễm và gây thiệt hại cho môi trường để bù đắp cho các chi phí xã hội. Thuế môi trường có thể chia thành 2 loại:
- Thuế gián thu: Đánh vào giá trị hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.
- Thuế trực thu: Đánh vào lượng chất thải độc hại với môi trường do cơ sở sản xuất gây ra.
Tại Việt Nam, Luật Thuế Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua
ngày 15/11/2010. Theo Luật Thuế Bảo vệ môi trường, đối tượng chịu thuế gồm 8 nhóm: Xăng, dầu, mỡ, nhờn; Than đá; Dung dịch HCFC; Túi ni lông; Thuốc diệt cỏ (loại hạn chế sử dụng); thuốc trừ mối (hạn chế sử dụng); Thuốc bảo quản lâm sản (hạn chế sử dụng); Thuốc khử trùng kho (hạn chế sử dụng). Ngày 8/8/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường. Nghị định này quy định về đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012.
2. Thuế và sức mạnh nội tại của một quốc gia
Sức mạnh tổng hợp quốc gia hay còn gọi là Thực lực quốc gia là một khái
niệm trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, dùng để chỉ toàn bộ thực lực đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của một quốc gia bao gồm các nhân tố vật chất (phần cứng); tinh thần (phần mềm); ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế. Một yếu tố góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh nội tại quốc gia là ngân sách của quốc gia. Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác.... Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng. Ở Việt Nam, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong tổng thu ngân sách.
Thuế đóng góp chủ yếu trong các khoản thu ngân sách Nhà nước. Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật quy định đối với các pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế phản ánh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội,thể hiện các mối quan hệ tài chính giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong phân phối các nguồn tài chính và là công cụ cơ bản thực hiện phân phối tài chính.
Thuế còn là công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính
sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm của mọi chính phủ. Sự thành công hay thất bại của việc quản lý Nhà nước, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là:
- Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý .
- Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động.
- ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát.
-Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan trọng nhằm biến 4 mục tiêu đó thành hiện thực.
Một quốc gia muốn phát triển bền vững phải dực vào tiềm lực và sức mạnh nội tại của chính mình, có tiềm lực đủ mạnh mới có khả năng duy trì được sự bền vững và thuế đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng nên sức mạnh của quốc gia.
3. Thuế và bình đẳng trong thu nhập
Người giàu cần đóng thuế nhiều. Nếu những bất bình đẳng có dấu hiệu tăng lên, sẽ làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế. Phân phối thu nhập bình đẳng là một chỉ số quan trọng thể hiện bình đẳng xã hội và chính quyền luôn cần đẩy mạnh cải cách hệ thống phân phối thu nhập để đảo chiều xu hướng chênh lệch thu nhập đang tăng lên hiện nay.
Bất bình đẳng về thu nhập thường có tính hai mặt khá rõ, thể hiện: vừa liên quan chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, vừa phản ánh thực trạng phát triển xã hội; vừa là động lực cho tăng trưởng, vừa có thể làm giảm tăng trưởng. Hơn nữa, Bất bình đẳng gia tăng gắn liền với sự chia sẻ không đều cơ hội dịch chuyển xã hội, đồng thời cản trở dịch chuyển xã hội liên thế hệ, làm suy giảm niềm tin xã hội và niềm tin vào thể chế của người dân. Chênh lệch phân phối thu nhập được thể hiện rõ nét trên tất cả các khía cạnh: Chênh lệch giữa những người giàu nhất và nghèo nhất; giữa nông thôn và thành thị; giữa các thành phố và vùng miền; giữa các ngành kinh tế và các giới. Nguyên nhân của Bất bình đẳng gắn với mô hình tăng trưởng theo bề rộng và chuyển dịch về mô hình sản xuất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; với sự khác biệt đặc điểm và cơ cấu nguồn thu, nguồn thu nhập chính giữa các vùng miền, giữa các ngành, các khu vực, các nhóm dân tộc; cũng như với vai trò không chính đáng của quan hệ, quyền thế, tiền bạc trong xin việc làm, nhất là việc làm trong khu vực công
Để giải quyết bất bình đẳng thu nhập, Việt Nam cần xây dựng được một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới cùng với các chính sách phân phối thu nhập thích hợp, tập trung vào cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, công bằng và mở, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; tăng đầu tư vào nguồn lực con người và khuyến khích tạo việc làm, khuyếnn khích hình thành một tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội; thiết kế hệ thống thuế sao cho không triệt tiêu động lực làm giàu củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_mon_phan_tich_chinh_sach_thue_chinh_sach_thue_va_v.doc