LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 3
I. MÁY MÓC 3
1. Khái niệm 3
2. Việc chuyển giá trị của máy móc sang sản phẩm 5
II. BÌNH LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC 6
1. Vế thứ nhất: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử dụng máy móc thay thế” 6
2. Vế thứ hai: “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn nữa” 9
III. Ý NGHĨA 11
1. Ý nghĩa của việc sử dụng máy móc 11
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam 13
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
17 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận môn Quá trình sản xuất Tư bản chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư bản chủ nghĩa, học viên thực hiện đề tài với chủ đề bình luận về quan điểm trên của Mác. Quan điểm đó không chỉ có ý nghĩa ở thời đại Mác mà còn có ý nghĩa thực tiễn mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay của thế giới và của Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
I. MÁY MÓC
1. Khái niệm
Những nhà toán học và những nhà cơ học - cho rằng “công cụ là một máy móc đơn giản và máy móc là một công cụ phức tạp”.
Mác viết: “Nhưng theo quan điểm kinh tế thì định nghĩa đó hoàn toàn không có giá trị gì cả, vì nó thiếu mất yếu tố lịch sử. Mặt khác, có người cho rằng sự khác nhau giữa công cụ và máy móc là ở chỗ, ở công cụ động lực là con người, còn ở máy móc thì động lực là những lực lượng tự nhiên khác hẳn sức người như súc vật, nước, gió, v.v.”
C. Mac tranh luận: “Như thế thì một cái cày do bò kéo, thuộc về những thời kỳ sản xuất khác nhau nhất, sẽ là một cái máy, còn chiếc máy dệt kim của Clau-xen, chạy được nhờ bàn tay của một người thợ duy nhất và một phút dệt được 96.000 mũi, lại chỉ là một công cụ đơn giản. Hơn thế nữa, cũng cái máy dệt đó nếu quay bằng tay thì là một công cụ, còn nếu chạy bằng hơi nước thì đó lại là một chiếc máy (Nghĩa là khái niệm đó không ổn, rất hời hợt)” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 537
Từ đó, C.Mác cho rằng “Tất cả máy móc đó phát triển đều gồm 3 bộ phận khác nhau một cách căn bản: động cơ, cơ cấu truyền lực và cuối cùng là máy công cụ hay máy công tác. Động cơ hoạt động với tư cách là sức đẩy của toàn thể cơ cấu. Nó tạo ra sức chuyển động của chính nó, như máy hơi nước, máy nhiệt lực, máy điện từ, v.v., hoặc nó nhận được sức đẩy của một lực tự nhiên có sẵn ở bên ngoài, như bánh xe nước chạy nhờ sức nước, hay cánh cối xay gió quay nhờ sức gió, v.v.. Cơ cấu truyền lực- gồm có vô-lăng đà, trục truyền lực, bánh xe răng, đĩa lệch tâm, cần, dây truyền lực, dây cua-roa, những thiết bị và phụ tùng trung gian đủ các loại khác nhau - điều tiết sự chuyển động, nếu cần thì thay đổi hình thái chuyển động, ví dụ từ hình thái vuông góc sang hình thái tròn, phân phối và chuyển sự chuyển động sang máy công cụ. Hai bộ phận này của cơ cấu chỉ tồn tại là để chuyển sự chuyển động sang máy công cụ, nhờ thế mà máy công cụ nắm lấy đối tượng lao động và thay đổi nó đi theo mục đích đã định” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 538, 539
.
C. Mac viết: Chính bộ phận này của máy móc, tức máy công cụ, là điểm xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ XVIII.
Khái niệm máy công cụ: Như vậy, máy công cụ là một cơ cấu mà sau khi nhận được một sự chuyển động thích hợp thì với những công cụ của nó, nó cũng làm những công việc giống như công việc mà người công nhân đã làm trước kia với những công cụ tương tự.
“Việc sáng tạo ra máy công cụ chính là yêu cầu sáng tạo ra các máy động lực để đáp ứng cho nó” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 542
Hệ thống máy móc: “từ máy công cụ kéo theo sự phát triển của máy động lực, máy truyền lực”. C. Mac viết: “Bây giờ, cần phải phân biệt hai điều: sự hiệp tác của nhiều máy cùng loại và hệ thống máy móc” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 545, 546
.
Máy móc: toàn bộ công việc do cùng một máy công tác làm ra. Máy này làm tất cả những công việc khác nhau mà trước kia người thợ thủ công tiến hành với công cụ của mình, ví dụ như người thợ dệt với khung cửi của mình, hoặc do nhiều người thợ thủ công lần lượt tiến hành với những công cụ khác nhau, chẳng kể đó là những người thợ thủ công độc lập hay là những thành viên của cùng một công trường thủ công).
Hệ thống máy móc: hệ thống máy móc chính cống chỉ thay thế một cái máy độc lập riêng lẻ ở nơi nào đối tượng lao động trải qua một loạt những quá trình bộ phận liên quan với nhau, được tiến hành bởi một chuỗi những máy công tác khác loại nhưng bổ sung cho nhau.
Khái niệm máy tự động: Khi máy công tác đã đảm nhiệm được tất cả những chuyển động cần thiết để chế biến nguyên liệu mà không cần đến sự trợ lực của con người nữa và chỉ cần đến con người để kiểm tra công việc thì lúc đó chúng ta có một hệ thống máy móc tự động, tuy nhiên, nó cũng vẫn có thể được cải tiến thường xuyên về chi tiết.
2. Việc chuyển giá trị của máy móc sang sản phẩm
C. Mac đặt vấn đề: Nếu như ngay mới thoạt nhìn, người ta cũng thấy rõ được rằng, khi gắn những lực lượng tự nhiên khổng lồ và khoa học tự nhiên vào quá trình sản xuất, đại công nghiệp tất phải nâng cao năng suất lao động lên một cách khác thường, thì đối với vấn đề liệu việc nâng cao sức sản xuất đó bù lại những chi phí lao động nhiều hơn ở chỗ khác không, người ta lại hoàn toàn không biết rõ được như thế.
Cũng như mọi bộ phận cấu thành khác của tư bản bất biến, máy móc không tạo ra một giá trị nào cả, nhưng nó chuyển giá trị của bản thân nó vào sản phẩm mà nó được dùng để chế tạo ra. Vì máy móc có giá trị và vì nó chuyển giá trị đó vào sản phẩm, cho nên nó là một bộ phận cấu thành của giá trị sản phẩm.
Đáng lẽ làm cho sản phẩm rẻ đi thì nó lại làm cho sản phẩm đắt lên một cách tỷ lệ với giá trị của bản thân nó. Và rõ ràng là máy móc và hệ thống máy móc phát triển - tư liệu lao động đặc trưng của đại công nghiệp - đã phình lên một cách không tương xứng về mặt giá trị, so với tư liệu lao động của nền sản xuất thủ công và công trường thủ công.
“Cần chú ý rằng máy móc bao giờ cũng tham gia toàn bộ vào quá trình lao động và bao giờ cũng chỉ tham gia từng phần vào quá trình hình thành giá trị. Nó không bao giờ nhập thêm một giá trị nhiều hơn là số giá trị mà trung bình nó mất đi do việc hao mòn của nó. Vì vậy, có một sự chênh lệch lớn giữa giá trị của máy móc và phần giá trị mà máy móc chuyển sang sản phẩm trong từng thời kỳ một. Có một sự khác nhau lớn giữa máy móc với tư cách là yếu tố hình thành giá trị và máy móc với tư cách là yếu tố hình thành sản phẩm” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 568
II. BÌNH LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC
Quan điểm: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn nữa” được Mác đưa ra trong Chương XIII, Quyển I của Bộ Tư bản khi bàn về máy móc và đại công nghiệp, cụ thể là được trích trong C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565 – 566.
1. Vế thứ nhất: “Nếu coi máy móc chỉ là một phương tiện để làm cho sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử dụng máy móc thay thế”
Đối với xã hội nói chung, trong đó có nhà tư bản, việc áp dụng máy móc khi mà số lao động để sản xuất ra máy móc nhỏ hơn số lao động mà máy móc thay thế. Khi đó, số chi phí lao động để sản xuất ra máy móc sẽ nhỏ hơn số chi phí số lao động mà máy móc thay thế.
Về mặt xã hội, mục tiêu của con người là giải phóng lao động hằng ngày để thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Để lao động hằng ngày được giải phóng, thì máy móc xuất hiện và thay thế lao động của con người.
Mác viết: “nếu việc sản xuất ra một chiếc máy cũng tốn một số lao động bằng với số lao động mà việc sử dụng máy đó tiết kiệm được, thì chỉ xảy ra có một sự chuyển dịch lao động mà thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa không giảm đi, hay sức sản xuất của lao động không tăng lên. Nhưng sự chênh lệch giữa lao động tiêu phí để làm ra máy và lao động mà máy đó tiết kiệm được, hay mức năng suất của máy, rõ ràng không phụ thuộc vào số chênh lệch giữa giá trị của bản thân cái máy và giá trị của công cụ mà máy đó thay thế. Sự chênh lệch đó vẫn tiếp tục tồn tại chừng nào mà những chi phí lao động cho máy móc, và do đó, bộ phận giá trị do nó chuyển sang cho sản phẩm, vẫn nhỏ hơn cái giá trị mà người công nhân với công cụ của mình đã thêm vào đối tượng lao động. Như vậy là năng suất của máy được đo bằng mức độ mà máy đó thay thế sức lao động của con người” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 563
.
Mác viết tiếp: “Theo ông Bây-xơ thì cần 2 công nhân rưỡi để đứng 450 cọc sợi tự động với các thiết bị có sẵn, do một mã lực hơi nước làm chuyển động; và mỗi một cọc sợi của máy kéo sợi tự động trong một ngày lao động 10 giờ kéo được 13 ôn-xơ sợi (số trung bình), tức là 2 công nhân rưỡi một tuần kéo được 365 5/8 pao sợi. Do đó, trong việc chuyển thành sợi, khoảng 366 pao bông (để cho giản đơn hơn, ta không nói đến cái phần bông cặn phải bỏ đi) chỉ thu hút 150 giờ lao động, hay 15 ngày lao động mỗi ngày 10 giờ, trong khi với cái xa quay tay, người thợ kéo sợi thủ công kéo được 13 ôn-xơ trong 60 giờ, nghĩa là cũng một số lượng bông như vậy sẽ thu hút hết 2700 ngày lao động mỗi ngày 10 giờ, hay 27 000 giờ lao động. Chỗ nào mà phương pháp blockprinting (in bằng bản gỗ) cũ hay phương pháp in vải hoa thủ công đã được thay thế bằng phương pháp in bằng máy, thì chỉ một cái máy với một người đàn ông hay một thiếu niên trong một giờ cũng in được một số vải hoa 4 màu, bằng số vải 200 người in trước kia. Trước khi I-lai Uýt-ni phát minh ra chiếc máy cán bông năm 1873 thì trung bình phải một ngày lao động mới cán được một pao bông. Nhờ có phát minh đó, một phụ nữ da đen có thể cán 100 pao bông một ngày, và từ đó đến nay, năng suất của máy cán bông còn tăng lên nhiều nữa. Trước kia phải chi phí 50 xu để sản xuất ra một pao bông sợi, nhưng về sau chỉ bán có 10 xu cũng đã thu được nhiều lợi nhuận hơn, nghĩa là trong đó bao gồm một số lượng lao động không được trả công nhiều hơn. Ở Ấn Độ, để tách xơ bông ra khỏi hạt người ta dùng một dụng cụ nửa cơ khí gọi là churka; với dụng cụ ấy một người đàn ông và một người đàn bà một ngày cán được 28 pao bông. Với cái churka do tiến sĩ Phơ-bơ-xơ sáng chế ra mấy năm trước đây, một người đàn ông và một thiếu niên có thể cán được 250 pao bông một ngày. Ở nơi nào bò, hơi nước và nước được dùng làm động lực thì chỉ cần dùng vài thiếu niên và thiếu nữ làm feeders (tức là người cung cấp nguyên liệu cho máy). Mười sáu cái máy như thế, dùng bò kéo, mỗi ngày thực hiện được công việc trước đây trung bình phải 750 người làm” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 564 - 564
.
“Như trên đã nói, cái cày máy chạy bằng hơi nước, mỗi giờ tốn 3 pen-ny hay 1/4 si-linh, thì làm được công việc bằng 66 người với tiền công mỗi giờ là 15 si-linh. Tôi trở lại ví dụ ấy để tránh một quan niệm sai lầm. Cụ thể là số 15 si-linh đó hoàn toàn không phải là biểu hiện của lao động mà 66 người thêm vào trong 1 giờ. Nếu tỷ lệ của lao động thặng dư so với lao động cần thiết là 100%, thì trong 1 giờ, 66 công nhân ấy sản xuất ra một giá trị là 30 si-linh, mặc dù vật ngang giá mà họ nhận được, tức là 15 si-linh tiền công, chỉ đại biểu cho 33 giờ. Như vậy, nếu giả định rằng một cái máy cũng trị giá bằng số tiền công hàng năm của 150 công nhân bị nó gạt ra, ví dụ 3000 p.xt. chẳng hạn, thì 3000 p.xt. đó cũng hoàn toàn không phải là biểu hiện bằng tiền của số lao động do 150 công nhân thực hiện và đã gộp vào đối tượng của số lao động, mà đó chỉ là một phần trong lao động hàng năm của họ, thể hiện ra bằng tiền công cho họ. Trái lại, giá trị bằng tiền của cái máy 3000 p.xt. là biểu hiện của toàn bộ lao động đã chi phí để sản xuất ra cái máy đó, không kể là lao động đó đã hình thành một tỷ lệ như thế nào giữa tiền công cho công nhân và giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó, ngay nếu cái máy trị giá ngang với sức lao động mà nó thay thế, thì lao động đã vật hóa ở trong cái máy đó bao giờ cũng ít hơn rất nhiều so với lao động sống mà nó thay thế” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 565
.
2. Vế thứ hai: “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn nữa”
Mục tiêu của nhà tư bản là giá trị thặng dư, lợi nhuận. Do đó, họ chỉ dùng máy móc khi giá trị (giá mua) máy móc phải nhỏ hơn giá mua sức lao động.
Sở dĩ Mác viết “Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó lại còn hẹp hơn nữa”. “Vì hắn không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức lao động đã sử dụng, cho nên đối với hắn, việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh lệch giữa giá trị của chiếc máy và giá trị của sức lao động bị máy đó thay thế. Vì sự phân chia ngày lao động thành lao động cần thiết và lao động thặng dư lại khác nhau trong các nước khác nhau, và trong cùng một nước thì cũng khác nhau tùy theo từng thời kỳ, còn trong cùng một thời kỳ thì lại khác tùy theo từng ngành kinh doanh; tiếp nữa vì tiền công thực tế của công nhân khi thì xuống thấp, khi thì lên cao hơn giá trị sức lao động của họ, cho nên số chênh lệch giữa giá cả của máy và giá cả sức lao động mà máy đó thay thế có thể lên xuống rất nhiều, mặc dù sự chênh lệch giữa số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra cái máy và tổng số lượng lao động được máy đó thay thế vẫn không thay đổi. Nhưng đối với bản thân nhà tư bản thì chỉ có con số chênh lệch thứ nhất mới quyết định chi phí sản xuất ra hàng hóa và ảnh hưởng đến hắn thông qua những quy luật có tính chất cưỡng chế của cạnh tranh” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 566-567
.
Mác dẫn chứng: “Chính vì vậy mà hiện nay, những máy móc được phát minh ra ở Anh chỉ dùng ở Bắc Mỹ, cũng như vào thế kỷ XVI và XVII những máy móc phát minh ở Đức chỉ được dùng ở Hà Lan, và vào thế kỷ XVIII nhiều phát minh của Pháp lại chỉ dùng ở Anh thôi. Ở những nước phát triển lâu đời hơn, bản thân máy móc đã gây nên - do việc sử dụng chúng trong một vài ngành công nghiệp - nạn thừa lao động (mà Ri-các-đô gọi là redundancy of labour) trong các ngành khác, đến nỗi trong những ngành này, tiền công thấp hơn giá trị sức lao động đã ngăn cản việc sử dụng máy móc và khiến cho việc sử dụng máy móc trở thành vô ích, lắm khi không thể thực hiện được theo quan điểm của tư bản, bởi vì lợi nhuận của nó bắt nguồn không phải từ việc giảm bớt lao động được sử dụng, mà là từ việc giảm bớt lao động được trả công.
Trong một vài ngành công nghiệp dệt len ở Anh, trong những năm gần đây lao động trẻ em đã giảm đi rất nhiều, có nơi hầu như bị loại bỏ. Tại sao vậy? Vì luật công xưởng bắt buộc phải sử dụng trẻ em làm hai ca, một ca 6 giờ một ca 4 giờ, hoặc mỗi ca 5 giờ thôi. Nhưng bố mẹ chúng không muốn bán những half-times (những người làm việc nửa thời gian) rẻ hơn là trước kia bán cả full-times (những người làm việc đầy đủ thời gian). Thế là những người làm việc nửa thời gian bị máy móc thay thế. "Nếu không cần thiết thì bọn chủ xí nghiệp không cần duy trì chế độ làm việc hai ca của trẻ em dưới 13 tuổi... Trên thực tế có một hạng chủ xưởng, chủ xưởng kéo sợi len, bây giờ ít khi sử dụng trẻ em dưới 13 tuổi, tức là những người half-times. Họ dùng những máy móc mới đã được cải tiến thuộc các loại khác nhau, khiến cho việc sử dụng trẻ em" (tức là trẻ em dưới 13 tuổi) "bị hoàn toàn xóa bỏ; ví dụ, để minh họa cho việc giảm bớt số trẻ em trong sản xuất, tôi sẽ nêu ra một quá trình sản xuất trong đó nhờ việc lắp thêm một thiết bị gọi máy xe sợi hiện có, mỗi cái máy, - có thể chỉ do một thiếu niên" (trên 13 tuổi) "làm Chế độ half-time đã kích thích "việc phát minh ra máy xe sợi" ("Reports of Insp. of Fact, for 31st October 1858").
Trước khi có lệnh cấm dùng phụ nữ và trẻ em (dưới 10 tuổi) trong các hầm mỏ, tư bản đã tìm được cách sử dụng những người đàn bà và thiếu nữ trần truồng ở các giếng mỏ than và các mỏ khác, lắm lúc cùng với đàn ông - một điều phù hợp với quy tắc đạo đức của nó và nhất là phù hợp với sổ cái kế toán của nó đến mức là chỉ sau khi điều đó bị cấm thì tư bản mới dùng đến máy móc. Người Mỹ đã phát minh ra máy nghiền đá. Người Anh không sử dụng những máy đó, bởi vì “kẻ khốn khổ” (“wretch” - đó là thuật ngữ đặc biệt của khoa kinh tế chính trị Anh để chỉ những người công nhân nông nghiệp) làm công việc ấy chỉ được trả một phần rất nhỏ trong số lao động của họ, thành thử máy móc sẽ làm cho sản xuất đắt lên đối với nhà tư bản. "Máy móc” thường chỉ được sử dụng khi nào giá cả lao động" (ý ông muốn nói tiền công) "tăng lên" (Ricardo. " Principles of Political Economy", 3rd ed. London, 1821, p. 479).
Ở Anh, để kéo thuyền dọc sông đào, v.v. thỉnh thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa, bởi vì lao động cần thiết để sản xuất ra ngựa và máy móc là một đại lượng đã được xác định về mặt toán học, còn lao động cần thiết để duy trì đời sống của phụ nữ trong số nhân khẩu quá thừa đó, thì tính bao nhiêu cũng được. Vì vậy, không một nơi nào lại lãng phí sức người một cách vô liêm sỉ vào những công việc nhỏ nhặt như ở ngay nước Anh, nước của máy móc” C.Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 23, trang 567 - 568
.
III. Ý NGHĨA
1. Ý nghĩa của việc sử dụng máy móc
Qua phân tích, ta thấy rằng, việc sử dụng máy móc có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Bản thân máy móc càng chứa đựng lao động ít bao nhiêu, thì giá trị mà chúng chuyển vào sản phẩm lại càng ít bấy nhiêu. Máy móc càng chuyển ít giá trị bao nhiêu thì chúng càng có năng suất bấy nhiêu và vì vậy, chúng càng phục vụ gần giống như một lực lượng tự nhiên bấy nhiêu. Một sự phân tích so sánh giá cả của những hàng hóa được sản xuất bằng lối thủ công hay công trường thủ công, với giá cả của những hàng hóa đó với tư cách là sản phẩm của máy móc, cho thấy rằng, nói chung, trong sản phẩm của máy móc, cái phần giá trị do tư liệu lao động chuyển sang đó tăng lên một cách tương đối nhưng lại giảm xuống một cách tuyệt đối.
Thực tế cho thấy, với sự tham dự của máy móc đã tạo ra năng suất lao động vượt trội gấp hàng chục, hàng trăm lần so với lao động thủ công, bởi máy móc làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước tới nay. Hàng hóa do máy móc sản xuất ra thì rẻ hơn và tốt hơn so với hàng hóa do công nhân sản xuất bằng xe kéo sợi và khung cửi dệt vải của mình, cho phép trong một thời gian ngắn có thể tăng thêm sản xuất công nghiệp một cách vô hạn mà chi phí lại không nhiều, góp phần giảm nhẹ lao động.
“Việc sản xuất bằng máy móc đó làm cho sự phân công lao động xã hội tiến xa hơn rất nhiều so với công trường thủ công, bởi vì nó đó làm tăng, với một mức vô cùng cao hơn, sức sản xuất của các ngành công nghiệp mà nó đó chiếm lĩnh được”.
Kết quả trước tiên của máy móc là làm tăng thêm giá trị thặng dư và khối lượng sản phẩm trong đó giá trị thặng dư được thể hiện, do đó làm tăng thêm cái chất mà giai cấp các nhà tư bản cùng với tay chân của họ tiêu dùng, đồng thời cũng làm tăng thêm chính ngay các tầng lớp xã hội đó.
Của cải không ngừng tăng thêm của những tầng lớp này và con số không ngừng giảm xuống một cách tương đối của những công nhân cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thiết yếu nhất, đã làm nảy sinh ra những nhu cầu xa xỉ mới và đồng thời cũng tạo ra những phương tiện mới để thoả mãn những nhu cầu ấy.
Một mặt, máy móc trực tiếp làm tăng thêm khối lượng nguyên liệu. Mặt khác, giá rẻ của các sản phẩm của máy móc và những phương tiện giao thông vận tải đó được cách mạng hoá là những vũ khí để chinh phục những thị trường ngoài nước. Bằng cách làm phá sản những sản phẩm thủ công của những thị trường đó, nền sản xuất bằng máy móc buộc những thị trường ấy phải biến thành những nơi sản xuất nguyên liệu cho nó.
Nhờ dùng máy móc, nhờ các quá trình hóa học và các phương pháp khác, nền công nghiệp hiện đại không ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với chúng là những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao động. Do đó, nền công nghiệp hiện đại không ngừng cách mạng hoá sự phân công lao động trong xã hội và không ngừng ném những khối lượng tư bản và khối lượng công nhân từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác.
Tuy nhiên Mác chỉ rõ, cùng với việc khẳng định bản chất cố hữu của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư, Mác cho rằng để có nhiều giá trị thặng dư nhà tư bản không có cách nào hiệu quả hơn là gia tăng năng suất lao động thông qua việc phát triển lực lượng sản xuất, mà cụ thể ở đây là cải tiến công cụ lao động. Công cụ lao động - yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất - được CNTB đầu tư mạnh nên liên tục được cải tiến, gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, qui mô và chất lượng để bóc lột được nhiều hơn, và vì vậy số lượng giai cấp công nhân bị bần cùng hóa ngày càng nhiều hơn, dẫn đến kết cục là trong CNTB chỉ tồn tại hai giai cấp cơ bản có lợi ích đối lập nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Điều này có ý nghĩa trong việc dẫn đến các cuộc cách mạng công nghiệp.
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Quan điểm của Mác về việc sử dụng máy móc và sự phát triển của hệ thống máy móc có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với nước ta, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang có tầm ảnh hưởng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu.
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng rõ hơn. Đảng ta đã đánh giá đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của khoa học công nghệ, của việc đổi mới trong sản xuất, của phương thức tổ chức, quản lý TBCN trong phát triển lực lượng sản xuất nên chủ động tiếp thu, kế thừa kinh nghiệm thành tựu loài người đã đạt được trong CNTB, đặc biệt về khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, các chính sách an sinh xã hội lao động - việc làm - thu nhập, giải quyết thất nghiệp, giảm nghèo bền vững.
Qua thực tiễn đổi mới, Đảng ta đã xác định để từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh vấn đề là nhận thức sâu sắc và triển khai hiệu quả trên thực tế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế, trong đó khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 22/03/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đảng ta xác định “khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia; tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hoá, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp”.
Trên cơ sở đó, ta thấy rằng, những quan điểm của C.Mác về ứng dụng máy móc cũng như khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất đã chỉ cho chúng ta thấy rằng để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn mới, chúng ta phải:
Một là, tăng tỷ trọng lao động trí óc trong cơ cấu lao động xã hội bằng cách tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho nghiên cứu khoa học và công nghệ. Không tăng được số lượng công nhân tri thức thì sẽ rơi vào tình huống thừa lao động giản đơn, thiếu lao động lành nghề, số người dôi dư do công nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng lên thành một sức ép xã hội gay gắt, trong khi có quá nhiều việc làm không tìm được người thích hợp.
Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Vì sản xuất công nghệ trở thành loại hình quan trọng hàng đầu, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, nên giáo dục, đào tạo phải khuyến khích tư duy sáng tạo của người học chứ không phải là nhồi nhét kiến thức, không nên đẩy người học vào tình trạng "chết đuối trong thông tin nhưng lại chết đói vì tri thức".
Do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ mà giáo đục phải cập nhật liên tục trong suốt cuộc đời người lao động. Tăng cường lý thuyết cho các lớp học nghề, tạo điều kiện cho những người đã tốt nghiệp các lớp học nghề theo học đại học, và tăng thời gian thực tập cho các học sinh, tăng giáo dục thông qua việc làm.
Ba là, xã hội hoá các công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, xã hội hoá giáo dục và đào tạo.
Chỉ có tăng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, chỉ có xã hội hoá việc nghiên cứu và giáo dục đào tạo thì mới có thể thực hiện được chủ trương của Đảng. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam.
KẾT LUẬN
Theo đà phát triển của đại công nghiệp, máy móc sẽ từng bước thay thế lao động giản đơn, quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động đơn giản sẽ trở thành một quá trình khoa học, lao động trực tiếp trở thành thứ yếu so với lao động khoa học. Hệ thống máy móc biểu hiện ra là một hình thức thích hợp nhất của tư bản cố định và sự phát triển của tư bản cố định lại là chỉ số của sự phát triển sức sản xuất, là thước đo mức độ phát triển của sự giàu có dựa trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên việc hệ thống máy móc tự động thay thế lao động giản đơn, làm giảm lao động trực tiếp nhưng không hề có nghĩa là giảm vai trò nhân tố con người trong sức sản xuất của lao động. Bởi vì, như C.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_mon_qua_trinh_san_xuat_tu_ban_chu_nghia.doc