MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
PHẦN I: THƯƠNG HIỆU VIỆT NAM TRÊN THỊ TRUỜNG QUỐC TẾ 3
I. Vai trò của thương hiệu trong kinh doanh 3
1. Khái niệm chung về nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm 3
2. Tầm quan trọng của nhãn hiệu sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 3
2.1Những lợi ích đem lại cho doanh nghiệp khi có một thương hiệu mạnh 3
2.2 Lợi ích của thương hiệu mang lại cho ngời tiêu dùng 5
3. Giá trị tài chính của thương hiệu 5
4. Quản lý và đánh giá thương hiệu 5
II. Thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế 6
1. Những vấn đề chung về thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế 6
2. Quan hệ Việt Nam và Mỹ sau chiến tranh 7
3. Xác định Mỹ là thị trờng đầy tiềm năng 7
PHẦN II: THỰC TRẠNG KINH DOANH CÁ DA TRƠN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRỜNG MỸ 8
I. Tình hình cá basa trên thị trường Mỹ 8
1. Sản phẩm cá tra, basa Việt Nam trên thị trờng Mỹ 8
2. Thương hiệu của cá da trơn Việt Nam trên thị trờng Mỹ 9
3. Cuộc chiến Catfish của Việt Nam trên thị trờng Mỹ 10
4.Những bất cập trong cuộc chiến Catfish 11
II. Luật chống phá giá của Mỹ với sản phẩm cá da trơn Việt 11
1. Vài nét về luật chống phá giá của Mỹ 11
2. Luật chống phá gía của Mỹ đợc áp dụng đối với cá da trơn của Việt Nam như thế nào? 13
III. Những thách thức với Việt Nam khi thị trờng Mỹ không còn 14
1. Ảnh hưởng đối với ngời nông dân nuôi trồng cá tra, basa 14
2. Ảnh hởng tới các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá 14
3. Phản ứng của Việt Nam và quốc tế 15
3.1 Phản ứng từ phía Việt Nam 15
3.2 Phản ứng của tổ chức Action Aid 16
3.3 Phản ứng của d luận Mỹ 16
PHẦN III: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁ DA TRƠN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRỜNG MỸ VÀ THỊ TRỜNG QUỐC TẾ
I. Việt nam có đủ điều kiện để xây dựng một thơng hiệu mạnh cho cá tra, basa 17
1 Cá Việt Nam rẻ hơn bởi điều kiện thiên nhiên ưu đãi 17
2 Cá Việt Nam rẻ hơn bởi giá nhân công rẻ 17
3 Giá thành sản xuất rẻ nên cá Việt Nam bán với giá thấp vẫn có lãi mà không cần bảo hộ 17
4 Những nguyên nhân làm giá cá nheo trên thị trờng Mỹ giảm 18
II. Những định hớng nhằm xây dựng và giải quyết vấn đề thơng hiệu cho cá basa 19
1 Thống nhất tên gọi cho cá tra, basa 19
2 Duy trì và phát triển thơng hiệu cá basa 19
III. Những giải pháp cho sản phẩm Việt Nam với luật chống phá giá của Mỹ 21
1 Đối với chính phủ Việt Nam 21
2 Đối với hiệp hội cá da trơn Việt Nam 21
3 Đối với các doanh nghiệp Việt Nam 21
Kết luận 22
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số kiến nghị về thương hiệu và giải pháp cho cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ và thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp.
Quan hệ Việt Nam và Mỹ sau chiến tranh
Chưa có một cuộc chiến tranh nào ở Mỹ mà giới báo chí lại tốn nhiều giấy mực như cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến kéo dài 20 năm ấy giờ đây đã là quá khứ. Kể từ ngày cuộc chiến chấm dứt tới nay đã hơn một phần tư thế kỷ, cả hai dân tộc Việt Nam và Mỹ đều muốn khép lại quá khứ, mở ra một tương lai: hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.
Đối với Việt Nam, chủ trương “bình thường hoá”, “đa dạng hoá”, “làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” luôn định hướng hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Cũng vậy, đối với Mỹ, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, Mỹ cũng không đi chệch khỏi quỹ đạo khi quay lại làm bạn với một đất nước hình chữ S cách mình nửa vòng trái đất. Vì thế cả hai nước đều có những nỗ lực để cho tiến trình bình thường hoá trở thành hiện thực: Từ nới lỏng cấm vận, cho đến bỏ cấm vận, rồi bình thường hoá, thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ giữa hai nhà nước, giao dịch thương mại, đầu tư, viện trợ.....và đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chính thức có hiệu lực từ tháng 5/2002 là minh chứng rõ ràng cho nỗ lực này.
Xác định Mỹ là thị trường đầy tiềm năng
Tuổi đời của nước Mỹ mặc dù còn rất trẻ xong những thành tựu kinh tế mà nó đạt được thì không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai làm cho nền kinh tế Nhật Bản, Đông Âu bị khủng hoảng nghiêm trọng, ngược lại, Mỹ giầu lên nhanh chóng nhờ việc buôn bán vũ khí với giá cao cho vay nặng lãi...Kể từ đó tới nay, dựa trên một tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, thu hút được nhiều nhân tài từ mọi nơi trên thế giới, Mỹ đã gây đựng được một nền kinh tế hùng mạnh vào loại bậc nhất của Thế giới, với GDP hơn 9000 tỷ $ chiếm khoảng 22% GDP thế giới, có nền khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
Với một diện tích rộng lớn, cùng với lượng dân cư đông đúc là một thị trường rộng lớn cho tất cả các mặt hàng. Hàng năm, nước Mỹ phải nhập khẩu một số lượng rất lớn các loại hàng hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng cá nhân. Xúc tiến thương mại với Hoa Kỳ, sẽ tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu cho nền kinh tế Việt Nam, gián tiếp tạo động lực thu hút nhiều hơn nữa các công ty nươc ngoài vào hoạt động đầu tư cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu ở Việt Nam.
Tăng cường giao dịch, buôn bán với Mỹ giúp Việt Nam ngày càng hoà nhập hơn nữa vào thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam có điều kiện để cải thiện hơn mạng lưới buôn bán của mình, điều này giúp Việt Nam theo kịp nhịp độ tự do buôn bán với các nước trong ASEAN, mở đường cho sự tham gia đầy đủ của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác kinh tế với các nước thành viên của hiệp hội.
Tuy nhiên, môi trường kinh doanh ở đây cũng rất phức tạp, doanh nghiệp nào muốn đứng vững ở thị trường này, họ phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác. Để làm được điều đó, quả thực không hề đơn giản, ngoài việc cập nhật những kĩ thuật mới, họ còn phải nắm vững được những quy định mà Mỹ đặt ra; những quy định này là rất quan trọng, có thể nói nó có ý nghĩa sống còn với các nhà xuất khẩu. Tuy vậy, khi hiểu được những điều đó, nhà xuất khẩu sẽ mở ra cho mình một cơ hội kinh doanh với lợi nhuận cao.
Phần II: Thực trạng kinh doanh cá da trơn Việt nam trên thị trường Mỹ
I. Tình hình cá basa trên thị trường Mỹ
Sản phẩm cá tra, basa Việt Nam trên thị trường Mỹ
Theo thông báo của phía Mỹ trong năm 2001, xuất khẩu cá tra, cá basa của ta sang thị trường Mỹ đạt 50 triệu $, riêng hai tháng đầu năm 2002, xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ đạt khoảng 30 triệu $. Còn theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản, trong những tháng đầu năm 2002, xuất khẩu loại cá này vào thị trường Mỹ tăng 20%, chiếm 52.8% tổng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam.
Theo số liệu của công ty tư vấn Mỹ Willkie Farr và Gallagher cung cấp, Việt Nam bắt đầu xuất cá tra, cá basa sang Mỹ: năm 1998 với sản lượng 261.352 kg; năm 2001 con số này tăng lên đạt 7.765.319 kg, chiếm 94.54% thị phần nhập khẩu loại cá này của Mỹ.
Từ đầu năm 2001 tới tháng 3/2002 khối lượng cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ có xu hướng giảm nhẹ, tuy nhiên, xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng. Đến nay đã chiếm tới 99.49% thị phần nhập khẩu cá da trơn. Như vậy Việt Nam hầu như là nước duy nhất xuất khẩu loại cá này cho thị trường Mỹ.
Năm 2000 mức giá trung bình của cá da trơn tại thị trường Mỹ có xu hướng giảm, giá cá của Việt Nam về cơ bản đã ở mức tương đương với giá trung bình của các nước nhập khẩu vào Mỹ.(khoảng 3.3$/kg). Đến năm 2001, mức giá trung bình có xu hướng giảm xuống mức 2.77 $/kg và giá cá của ta cũng giảm theo ở mức này. Đến tháng 3/2002, mức giá trung bình của ta và các nước khác đều ở mức 2.65 $/kg. Tuy nhiên theo báo cáo gần đây nhất của Bộ Thương Mại, hiện nay giá cả của Việt Nam tại thị trường Mỹ đã tăng từ 2.6 $/kg đến 3.7$/kg. Việc xuất khẩu cá basa, cá tra của Việt Nam vào thị trường Mỹ tiếp tục tăng là do trong những tháng đầu năm cá nheo của Mỹ chưa tới vụ thu hoạch nên cung thiếu. Đồng thời, luật 107-76 về ngân sách nông nghiệp 2002 của Mỹ (có hiệu lực từ tháng 10/2001 đến 30/9/2002) chỉ không cho dùng tên Catfish khi làm thủ tục nhập khẩu, chứ không cấm việc sử dụng tên gọi này ở các khâu tiêu thụ (bán buôn, bán lẻ, dịch vụ, nhà hàng) tại thị trường Mỹ. Mặt khác, việc chính phủ Mỹ và các doanh nghiệp sản xuất cá da trơn sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tại Mỹ để tuyên truyền cho phong trào hạn chế nhập khẩu cá da trơn của ta vào Mỹ đã có phần nào tác dụng quảng cáo cho cá của ta tới đông đảo người tiêu dùng Mỹ.
2. Thương hiệu của cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ
Cá da trơn Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ có tên gọi Catfish, và đó cũng là tên chữ cái tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vẩy), bao gồm cá trê, cá nheo, cá tra, cá basa, cá lăng, cá bông lau...Theo hệ thông phân loại ngư học, tất cả các loài cá nói trên đều thuộc về Bộ cá nheo có tên gọi (Siluriformes) gồm khoảng 2500 đến 3000 loài cá khác nhau, phân bổ trong các thuỷ vực nước ngọt, mặn và lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp vào các họ cá khác nhau, trong đó có họ cá nheo Mỹ (Ictaluridae) và họ cá da trơn Châu á (Pangasiidae). Loài cá nheo được nuôi ở Mỹ (Ictalurus punctatus) thuộc họ cá nheo Mỹ, còn cá tra (Pangasius hypophthalmus) và cá tra, cá basa (Pangasius bocourti) được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long thuọoc họ cá da trơn Châu á.
Tuy nhiên, khi sử dụng tên Catfish cho các sản phẩm này, Việt Nam đã bị Hiệp hội cá da nheo Mỹ (CFA) phản đối vì họ cho rằng sản phẩm này đã sử dụng nhãn hiệu của họ. Nhưng trên thực tế, đây là tên sản phẩm chứ không phải tên nhãn. Mặc dù vậy, dưới sức ép của CFA, sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng đã gặp phải những bất lợi lớn.
Đáng chú ý nhất là trong cuộc chiến Catfish hiện này là Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ; Hiệp hội này đại diện cho giới chủ trại nuôi cá nheo giầu có ở bang Missisipi và một số bang miền Nam nước Mỹ. Đây là ngành sản xuất quan trọng tại các bang này, các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ thu lợi rất lớn từ việc khai thác những vùng đất hoang mênh mông nơi đây vào việc nuôi cá. Trước đây, cá nheo vốn là thức ăn của người da đen nghèo khổ, nay đã trở thành một loại thực phẩm được bán rộng rãi trên thị trường Mỹ, xếp thứ 5 trong số các loại thuỷ sản được tiêu thụ nhiều nhất trên thị trường này.
Chính vì vậy, họ rất cay cú khi thấy những sản phẩm cá da trơn được nhập khẩu từ nước ngoài có phẩm chất tốt hơn, giá bán rẻ hơn, đang chiếm lĩnh trên thị trường Mỹ. Và thế là sau hơn 20 năm sau khi thất bại trong cuộc chiến chống lại dân tộc Việt Nam, Mỹ lại chủ trương dấy lên một cuộc chiến mới, mà như họ tuyên bộ lần này không phải để chống lại chủ nghĩa cộng sản mà để chống lại cá tra, cá basa của Việt Nam.
3. Cuộc chiến Catfish của Việt Nam trên thị trường Mỹ
Trong hai năm 1999 và 2000, lượng cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng khá nhanh, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của những nhà nuôi cá nheo Mỹ. Vì vậy, từ cuối năm 2000, qua dư luận và các phương tiện thông tin đại chúng, CFA đã cố tình đưa những thông tin sai lệch để bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa của Việt Nam. CFA đã thực hiện một chiến dịch ồn ào nhưng không ngăn được lượng cá da trơn Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Để tìm hiểu thực chất vấn đề, Hiệp hội nuôi cá nheo Mỹ đã sang Việt Nam tìm hiểu tình hình nuôi cá tra, cá basa. Đoàn đã khảo sát kỹ tình hình thực tế nuôi và chế biến cá tra, cá basa tại các bè cá, ao nuôi, nhà máy chế biến tại An Giang và Cần Thơ. Những kết quả mà đoàn đánh giá tốt về công nghệ nuôi, chế biến cũng như điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của cá da trơn Việt Nam. Với nhận xét này, cuộc chiến chống lại cá da trơn Việt Nam ở Mỹ lắng xuống chút ít.
Nhưng kết quả này đã không được CFA công nhận. Đầu tháng 2/2001, vào thời vụ ở Mỹ khan hiếm cá nheo, cá nhập khẩu Việt Nam tăng, cuộc chiến lại rộ lên. CFA bắt đầu một chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện Cá nheo Mỹ (TCI) phát động. Những áp phích in trên các tạp chí thương mại và quảng cáo thực phẩm sặc mùi bài ngoại với những dòng tít như: Đừng bao giờ tin vào sản phẩm catfish ngoại quốc. Bên cạnh đó, họ phát động chiến dịch người Mỹ ăn cá nheo Mỹ và sáng tác ra nhãn hiệu Cá catfish nuôi của Mỹ, tạo ra không khí bài xích đối với các sản phẩm Việt Nam.
Đồng thời, chủ tịch Hiệp hội còn đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về cá Catfish. Trong những tháng tiếp theo đó, hiệp hội CFA đã thuê công ty luật Nathan Associates tiến hành thu thập thông tin và mở chiến dịch tuyên truyền hạ thấp uy tín của cá Việt Nam, nhấn mạnh do cá Việt Nam nhập khẩu mà giá cá nheo ở Mỹ bị giảm tới 10%.
Để có thể giành được phần thắng, CFA hoạch định trong chiến dịch tiến hành vận động gây áp lực, lôi kéo nghị sĩ của các bang có nghề nuôi cá nheo, huy động mọi lực lượng ở các cơ quan lập pháp và hành pháp, tìm kiếm mọi sự hỗ trợ để tấn công trả đũa các sản phẩm cá da trơn Việt Nam nhập khẩu. Điều này đã khiến cho sản phẩm cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ gặp phải những thách thức lớn, đòi hỏi những giải pháp giải quyết.
Những bất cập trong cuộc chiến Catfish
Ngày 11/7 năm 2001, Quốc hội Mỹ được kêu gọi thông qua dự luật H.R.2439, dưới tên gọi ghi nhãn về nguồn gốc xuất xứ đối với cá nuôi nhập khẩu trong khâu bán lẻ, với những lập luận công khai bôi nhọ sản phẩm của Việt Nam. Tuy nhiên, dự luật này không được đưa ra thông qua, do Thượng viện Mỹ đã bác bỏ một dự luật có nội dung tương tự đối với sản phẩm nông nghiệp nuôi trồng.
Để tiếp tục tồn tại trên thị trường Mỹ trước sức ép của CFA, Việt Nam cũng đã thực hiện hầu như tất cả những yêu cầu mà phía Mỹ đưa ra nhằm tiếp tục xuất khẩu sản phẩm cá da trơn sang thị trường này. Tuy nhiên, dường như phía Mỹ chưa bằng lòng với những yêu sách mà chúng đưa ra. “Cuộc chiến” lại tiếp tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng căng thẳng. Nguy hiểm hơn nữa, một số thượng nghị sĩ đại diện các bang miền Nam của Mỹ đã mưu toan dùng vấn đề Catfish để ngăn chặn việc thông qua Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ tại Quốc hội Mỹ. Mưu đồ này không thành. Một trong số những nghị sĩ này còn dám nói rằng cá da trơn nuôi ở sông Mêkông có thể chứa cả dư lượng chất độc màu da cam mà quân đội Mỹ đã rải xuống đây trong thời kì chiến tranh...
Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ bất ngờ thông qua dự luạt H.R.2964, chỉ cho phép sử dụng tên cá “Catfish” cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae, thực chất là cho riêng loài cá nheo Mỹ Ictaluruss punctatus. Việc tự giành quyền sử dụng một tên gọi đã rất thông dụng của hơn 2.500 loài cá khác nhau trên thế giới lấy làm tên riêng cho một loài cá của mình, quả là một hành động mà thế giới không thể chấp nhận được.
Việc này không chỉ dừng lại ở đây, Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ còn đệ đơn kiện Việt Nam bán phá giá cá phi dê đông lạnh tại thị trường của họ. Vụ kiện này đã gây cho phia Việt Nam cũng như CFA rất mệt mỏi, tới nay vẫn chưa có câu trả lời chính thức.
II. Luật chống phá giá của Mỹ với sản phẩm cá da trơn Việt
1 Vài nét về luật chống phá giá của Mỹ
Khái niệm phá giá “dumping” được định nghĩa là việc bán một sản phẩm tại trị trường nước ngoài với mức giá thấp hơn mức gía thông thường hoặc thấp hơn giá thành của sản phẩm đó sau khi đã tính tới các chi phí liên quan đến nhập khẩu và phân phối.
Luật chống phá giá của Mỹ được thông qua lần đầu tiên vào năm 1916 như một phần của các luật chống độc quyền. Luật này được sửa đổi nhiều lần, lần gần đây nhất là vào năm 1994 có hiệu lực năm 1995 nhằm phản ánh những thay đổi của các hiệp định liên quan tới phá giá tại vòng đàm phán Uruguay.
Việc kiện bán phá giá được tiến hành thông qua hai cơ quan chính phủ của Mỹ là Bộ Thương Mại (DOC) và Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC). DOC chịu trách nhiệm điều tra xem sản phẩm đó có đúng là được bán phá giá tại thị trường Mỹ hay không. Còn ITC sẽ phải điều tra xem việc nhập khẩu sản phẩm đó vào thị thường Mỹ có gây thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp của Mỹ sản xuất cùng loại sản phẩm đó hay không. Hai quá trình điều tra này được tiến hành song song, biện pháp và mức độ chống phá giấ sẽ được áp dụng nếu cả hai cơ quan dều thống nhất là hai vấn đề trên là có thật. Quá trình này thường kéo dài 280-420 ngày. Để thắng kiện, công ty nước ngoài bị kiện phá giá phải chứng minh được (1) là mình không bán phá giá, (2) không gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các ngành công nghiệp.
Thông thường đối với các công ty của các nước được công nhận có nền kinh tế thị trường, biên độ phá giá được xác định bằng cách so sánh giá bán của sản phẩm đó tại thị trường Mỹ với giá bán tại thị trường của nước sản xuất. Trong trường hợp đó được bán rất ít hoặc không được bán tại thị trường nước sản xuất thì DOC sẽ tiến hành so sánh với mức giá của thị trường một nước thứ ba có điều kiện tương tự với thị trường của Mỹ, ví dụ như EU. Các vụ kiện chống phá giá nhằm vào các công ty thuộc một nước có nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam thì biên độ phá giá được xác định bằng cách so sánh mức giá của sản phẩm đó vơí một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường và có mức sống tương đương với mức sống của nước sản xuất ra sản phẩm đó. Cũng có thể, việc thẩm định phải dựa trên cơ sở chi phí sản xuất sản phẩm đó nếu sản phẩm đó không được bán tại thị trường của nước thứ ba. Chi phí sản xuất thường được tính trên cơ sở những số liệu được công bố công khai và do vậy có thê không phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất.
Khi nhận được đơn kiện một doanh nghiệp nào đó bán phá giá, toà án sẽ phải tiến hành điều tra. Quá trình điều tra này bao gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Khởi sự điều tra để áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 20 ngày sau khi có đơn khiếu nại).
- Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ về thiệt hại (khoảng 45 ngày sau khi có đơn khiếu nại).
- Giai đoạn 3: Xác định sơ bộ của Bộ Thương mại (140 ngày sau khi bắt đầu điều tra, tối đa là 190 ngày đối với những trường hợp phức tạp).
- Giai đoạn 4: Quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại (215 ngày sau khi bắt đầu điều tra, tối đa là 275 ngày).
Giai đoạn 5: Quyết định cuối cùng của UBMTTQ về thiệt hại (260 ngày sau khi bắt đầu điều tra).
Giai đoạn 6: Lệnh áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 1 tuần sau khi có quyết định cuối cùng của Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ).
2. Luật chống phá gía của Mỹ được áp dụng đối với cá da trơn của Việt Nam như thế nào?
Khi sản lượng cá basa Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ ngày càng tăng, ảnh hưởng tới quyền lợi của những nhà nuôi cá nheo Mỹ, làm lợi nhuận của họ bị giảm xuống. Không chịu chấp nhận trước thực tế này, Hiệp hội chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) đã quyết định tìm mọi cách để giảm sản lượng cá da trơn nhập khẩu từ Việt Nam. Việc đầu tiên họ làm là buộc Việt Nam phải đổi tên cá, không cho phep sử dụng tên Catfish. Thấy việc này không đạt được kết quả, CFA chuyển sang chiêu bài thứ hai, họ cho rằng việc nhập khẩu cá da trơn Việt Nam vào Mỹ có gây tác hại đến công nghiệp sản xuất và chế biến cá của nước này; đồng thời CFA tố cáo Việt Nam bán phá giá cá basa tại thị trường Mỹ.
Ngày 28/6/2002, CFA đã chính thức kiện Việt Nam bán phá giá cá basa tại thị trường Mỹ.
STT
Công việc
Thời gian
1
CFA đệ đơn kiện
28/6/2002
2
USITC đưa kết luận sơ bộ và Bộ Thương Mại bắt đầu cuộc điều tra xem Việt Nam bán phá giá cá da trơn phi lê đông lạnh vào thị trường Mỹ hay không.
12/8/2002
3
Bộ Thương Mại Mỹ kết thúc cuộc điều tra
5/12/2002
4
Kết luận vêc cuộc điều tra của Bộ Thương Mại
18/2/2003
5
Kết luận cuôi cùng về vụ kiện
4/4/2003
6
Bản án đưa ra
15/4/2003
Bảng: Trình tự giải quyết vụ kiện bán phá giá cá da trơn của Việt Nam
Ngày 9/8, cả năm uỷ viên của Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) không xác định được rằng nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất cá nheo Mỹ. Tuy nhiên, ITC không quyết định định chỉ vụ kiện của Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) vô cớ cáo buộc các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa vào thị trường Mỹ. Với kết quả bỏ phiếu của ITC, quá trình điều tra sẽ phải kéo dài và Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) sẽ tiến hành các bước điều tra và kết luận sơ bộ vào cuối năm nay để xác định các yếu tố bán phá giá theo trình tự luật định. Như vậy, vụ kiện sẽ chuyển sang giai đoạn gay go nhất và các chuyên gia ITC sẽ sang Việt Nam để xác định xem Việt Nam có bán phá gi5á hay không.
III. Những thách thức với Việt Nam khi thị trường Mỹ không còn
1. ảnh hưởng đối với người nông dân nuôi trồng cá tra, basa.
Sản lượng cá da trơn Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm một tỷ lệ rất cao. Vì vậy, khi các vụ kiện liên tiếp xảy ra, sản lượng xuất khẩu cá của Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm rõ rệt. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của những người dân mà suốt đời họ chỉ gắn bó với nghề cá. Cuộc sống bình thường đã khó khăn, nay lại càng thêm khó khăn hơn. Hàng vạn ngư dân đồng bằng sông Cửu Long có khả năng mất nghề và không có nghề sinh nhai, do chưa có điều kiện làm nghề khác. Vả lại, việc chuyển nghề không phải là việc dễ dàng. Cùng với đó phát sinh nhiều vấn đề khác mà chi phí phải trả là rất lớn như đầu tư học nghề mới, đầu tư phát triển nghề mới, chi phí cơ hội cho thời gian đi học nghề...
Bên cạnh đó, sẽ có nhiều gia đình trở thành con nợ lâu dài, khó trả. Họ đã vay mượn rất nhiều để đầu tư vào bè, với mong muốn được thay đổi cuộc sống. Nếu phải từ bỏ nghề này rất nhiều gia đình sẽ rơi vào cảnh túng thiếu nợ nần. Đã có nhiều hộ gia đình do ảnh hưởng của việc giảm sản lượng xuất khẩu cá vào khoảng 10-12/2001 (do lệnh cấm đặt tên cá là Catfish) của chính phủ Mỹ đã phải lao đao vì nợ nần.
2. ảnh hưởng tới các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá
Nếu phía Mỹ giành được thắng lợi trong những vụ kiện trên thì không chỉ sản lượng xuất khẩu của cá vào thị trường Mỹ giảm sút, mà còn ảnh hưởng nhiều tới các thị trường khác. Nguyên nhân là do một trong những cáo buộc của họ là Việt Nam đã không công bằng khi xuất khẩu cá sang thị trường họ với mức giá đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.
Một khi điều đó xảy ra, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất có thể rơi vào tình trạng phá sản, điều đó đồng nghĩa với việc gây ra thất nghiệp cho hàng vạn công nhân đang hoạt động trong lĩnh vực này.
Khi các doanh nghiệp này bị phá sản sẽ kéo theo hàng loạt các ngành khác có liên quan tới nghề này như ngành chế biến thức ăn cho cá, ngành tạo con giống ...sẽ cũng rơi vào tình trạng vô cùng khốn khó, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của những người chủ cũng như công nhân.
3. Phản ứng của Việt Nam và quốc tế
3.1 Phản ứng từ phía Việt Nam
Đứng trước những lời cáo buộc vô căn cứ như đã nêu trên, Việt Nam đã lập tức có phản ứng đáp lại nhằm giảm bớt những thiệt thòi.
Bộ ngoại giao nước ta đã nhận định, việc Mỹ ngăn cản nhập khẩu cá da trơn của Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tinh thần Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gây thiệt hại cho người nuôi trồng và các doanh nghiệp Việt Nam, tạo rào cản trong trao đổi thương mại. Bộ thương mại Việt Nam cũng đã yêu cầu phía Hoa Kỳ huỷ bỏ những quy định vô lý, hạn chế tác hại đối với Việt Nam và dây trỏ ngại cho việc thực hiện Hiệp định.
Để khẳng định việc làm vô căn cứ của CFA, Bộ trưởng Thương mại Việt Nam cũng đã gửi thư khẩn tới Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ và đại diện thương mại Hoa Kỳ về việc Quốc hội Hoa Kỳ đã ký ban hành thành luật, trong đó có điều khoản liên quan tới nhãn mác basa của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam cũng đã gặp đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam để phản đối việc Hoa Kỳ cấm các loại cá da trơn nhập vào nước này đựoc mang tên Catfish, nếu không thuộc dòng cá da trơn của Hoa Kỳ theo đạo luật HR 2646. Tuy nhiên, dường như phía Hoa Kỳ đã phớt lờ tất cả mọi chuyện để hòng bảo vệ sản phẩm trong nước mình.
Việt Nam luôn xác định thị trường Mỹ là một thị trường lớn, nếu để mất thị trường này sẽ là một điều thật đáng tiếc. Do vậy, phía Việt Nam luôn mong muốn có thể giải quyết êm thấm những tranh chấp không đáng có như đã nói ở trên. Việt Nam chấp nhận một tên gọi mới cho loại cá này là “basa”. Với việc thay đổi tên gọi này, sản lượng cá nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam không hề giảm, thậm chí còn có xu hướng tăng lên. Không đạt được mục đích, Hoa Kỳ tiếp tục cho kiện cá basa của ta bán phá giá tại thị trường của họ. Đây đúng là luận điệu cay cú của kẻ bị thua kiện, điều này đã làm cho phía Việt Nam không thể có những “nhường nhịn” nữa. Chúng ta đã quyết định theo đuổi vụ kiện này đến cùng cho dù có tốn kém bao nhiêu chăng nữa bởi chúng ta tin vào lẽ phải của mình.
Trải qua dòng thời gian, vụ kiện đã đi vào chặng đường thứ hai, đây sẽ là giai đoạn gay go quyết liệt nhất, nó có ý nghĩa sống còn với cả bên nguyên đơn và bị đơn. Hiện nay, chúng ta đã săn sàng chuẩn bị mọi tính huống để có thể dối phó với CFA.
3.2 Phản ứng của tổ chức Action Aid
Tổ chức Action Aid là tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ, phát triển và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
Action Aid phản đối việc CFA kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá vì đó là một đơn kiện không phù hợp, mơ hồ và trái với các nguyên tắc thưong mại. Tất nhiên, không phải ngẫu nhiên mà tổ chức này lại đưa ra lời nhận xét như vậy. Họ đã trải qua một thời gian để điều tra về vụ việc này, kết quả hoàn toàn đúng như giải trình của Việt Nam. Có thể nói đây là một nhận định rất công minh, không thiên vị bất kì một bên nào cả. Họ chỉ bảo vệ cho lẽ phải, bảo vệ cho những người dân nghèo mà cuộc sống bình thường đã khó khăn, nay lại càng khó khăn hơn gấp bội kể từ khi các vụ kiện của CFA được tiến hành.
Đứng trước điều đó, Action Aid nhận thấy rằng khi xem xét vụ kiện, ITC cần phải xem xét lợi ích của cả hai bên, đặc biệt là lợi ích của nông dân nghèo nuôi cá ở Việt Nam và lợi ích của người tiêu dùng Mỹ trong việc lựa chọn sản phẩm cá với giá phải chăng và chất lượng tốt. Mọi quyết định được đưa ra cần đặt trong bối cảnh thực hiện các cam kết giữa hai chính phủ Mỹ và Việt Nam về thương mại và cùng có lợi, và vì quyền lợi của số đông.
3.3 Phản ứng của dư luận Mỹ
Việc kiện sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam dùng thương hiệu cá Mỹ, ròi bán phá giá không chỉ gây xôn xao dư luận quốc tế, mà bản thân chính nước khởi kiện cũng có những ý kiến chỉ trích việc làm sai trái này.
Người dân Mỹ cho rằng: “Catfish, nhưng sẽ không còn được gọi là Catfish nữa nếu con cá đó có nguồn gốc nhập khẩu từ Việt Nam”. Đây dường như là một câu châm biếm mà người dân Mỹ đã khéo léo sử dụng để nhằm ý định phản đối vụ kiện thương hiệu của CFA.
Còn phản ứng của các quan chức chính phủ Mỹ thì sao? Thượng nghị sĩ Phin Gram đảng cộng hoà bang Texas khẳng định rằng cá nhập từ Việt Nam không chỉ nhìn giống cá Catfish. Những người kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi là Catfish. Vậy cớ sao quốc hội Mỹ muốn gọi nó khác đi chứ không phải là Catfish . Tuy nhiên nỗ lực của ông đã không đạt được mục đích của mình tại diễn đàn Thượng nghị viện Mỹ.
Sau vụ kiện “thành công” về thương hiệu “catfish”, dường như Mỹ không ngăn chặn được lượng cá xuất khẩu từ Việt Nam, thậm chí sản lượng này còn tăng lên, CFA lại đưa ra một chiêu bài mới, kiện Việt Nam bán phá giá cá basa. Lần này, Thượng Nghị sĩ Phin Gram đã cùng Thượng nghị sĩ John Mccain một lần nữa lên tiến phản đối vụ kiện hết sức vô lý này.
Và cũng một lần nữa, người dân Mỹ lại lên tiếng phản đối vụ kiện chống phá giá này bởi quyền lợi của họ đã bị ảnh hưởng nhiều. Nếu như vụ kiện thành công, họ sẽ không còn được thưởng thức loài basa nhập khẩu từ Việt Nam với chất lượng ngon và giá cả hợp lí.
PHần III: những vấn đề đặt ra và giải pháp cho cá da trơn việt nam trên thị trường Mỹ và thị trường quốc tế
I. Việt nam có đủ điều kiện để xây dựng một thương hiệu mạnh cho cá tra, basa
1. Cá Việt Nam rẻ hơn bởi điều kiện thiên nhiên ưu đãi
Do Đồng bằng sông Cửu Long rất đợc sự u đãi của thiên nhiên. Nơi đây có hai mùa ma và mùa khô, có khí hậu rất phù hợp với việc nuôi cá tra, có sông Tiền và sông Hậu là hai con sông có lu lợng nớc khá lớn, nhất là và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28267.doc