Mục lục
PHẦN I : MỞ ĐẦU 2
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. 2
II. MỤC ĐÍCH. 2
PHẦN II : NỘI DUNG 3
I. Những biến đổi tâm sinh lý của trẻ vị thành niên. 3
1.Thay đổi về mặt sinh lý. 3
2. Những thay đổi mặt xã hội: 4
3. Những biến đổi tâm lý trẻ VTN: 5
II. Những rối nhiễu tâm lý VTN : 9
1. Nguyên nhân của rối nhiễu tâm lý : 9
2. Các rối nhiễu tâm lý : 10
III. Một số góp ý với nhà giáo dục trong việc giáo dục trẻ VTN. 16
PHẦN III : KẾT LUẬN 19
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7108 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số rối nhiễu tâm lý vị thành niên dưới cái nhìn của nhà giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai trò và ý thức của trẻ được nâng cao.
Trong nhà trường: với một khối lượng kiến thức lớn buộc trẻ phải tiếp thu hơn nữa sự kéo dài của thiết chế gia đình với sự bao bọc, quan tâm, chăm sóc chu đáo của giáo viên cấp tiểu học bị phá bỏ. Bước vào cấp THCS và cao hơn ở bậc THPT yêu cầu tính tự giác, tự lập và chủ động trong học tập. Học thụ động chuyển sang giai đoạn cao hơn- chủ động. Động cơ học tập được xác định một cách rõ ràng trở thành đông lực kích thích tính chủ động của hoạt động học.
Trong xã hội: trẻ bắt đầu được thừa nhận như một thành viên tích cực của xã hội. Vì vậy, hầu hết có khuynh hướng sống một cuộc sống tích cực vì xã hội, muốn mang lại lợi ích cho người khác.
Nhìn chung địa vị của trẻ VTN được nâng cao trong xã hội chúng được tôn trọng, được lắng nghe ý kiến. Sự thay đổi này có thay đổi lớn đến tâm lý trẻ VTN. Trẻ VTN tự ý thức mình là người lớn thực thụ, có quyền chủ động quyết định và đối phó với mọi vấn đề xảy ra quanh mình. Cho dù người lớn nhìn nhận những vấn đề đó theo một cách khác.
3. Những biến đổi tâm lý trẻ VTN:
Những thay đổi thời kì dậy thì, đưa trẻ vào trạng thái không ổn định về tâm lý. Đây là nguyên nhân phát sinh ra hành vi bất thường ở các em.
Sự phát triển không cân đối của hệ tuần hoàn, thể tích tim tăng nhanh nhưng đường kính của các mạch máu phát triển chậm gây rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu. Các em thường có cảm giác mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, dễ cáu gắt và bực tức.
Sự hưng phấn mạnh chiếm ưu thế, các ức chế kém đi, vì vậy trẻ VTN dễ bị kích động, nóng nảy, hung hăng.
Khả năng tư duy chuyển đổi tư duy trực quan hình tượng sang tư duy cụ thể và phát triển mức cao của tư duy trừu tượng, kết hợp hành động nhanh mạnh của hệ thần kinh hình thành nên đặc tính nổi bật trong tâm lý giai đoạn VTN: tò mò và thích kkhám phá. Đặc tính tâm lý là rất tốt cho quá trình học tập và tìm hiểu xã hội. Nhưng nó cũng là lý do chính lôi cuốn trẻ VTN vào tệ nạn xã hội.
Một khía cạnh tâm lý do thể xác thay đổi ở tuổi dậy thì là : trẻ VTN luôn bị ám ảnh về cơ thể mình và luôn tưởng tượng ra những hình ảnh cơ thể mình sẽ như thế nào. Đầu giai đoạn này các em thấy có cảm giác “ bị đánh mất mình”,bản sắc như “ bị nhoè đi” ( Erickson-1964), và đi kèm theo nó là “ sự giảm sút của việc tự đánh giá bản thân” ( Harter-1990; Wigfild và đồng nghiệp, 1991). Có thể nói chính sự thay đổi đột ngột về thân thể khiến cho các em không tìm thấy lại được chính mình. Điều này giải thích tại sao chúng có thể đứng ngắm gương hàng giờ đồng hồ. Bên cạnh đó những thay đổi lớn của lứa tuổi này kéo theo khoong ít những thay đổi lớn vè tâm tư tình cảm, ước mơ, nguyện vọng càng làm cho các em thêm lạ lẫm với chính mình.
Trong hoàn cảnh này nếu không được quan tâm, chăm sóc có chủ định và đầy đủ, trẻ dễ có hành động lệch lạc, dễ có những đặc điểm tâm lý khác với con người trước kia của các em.
“ Cảm giác là người lớn” là cấu thành mới của quá trình tự ý thức của trẻ VTN. Cảm giác về sự trưởng thành này nảy sinh do các em ý thức được và đánh giá được những tiến triển về thể chất và sự phát dục trên cơ thể. Trẻ hình thành “ cảm giác là người lớn” chủ yếu thông qua sự phát triển cơ quan bề ngoài( cơ quan sinh dục; khối lượng cơ thể). Sự phat triển này làm hcúng thấy mình đã trưởng thành giống bố hoặc mẹ.
Nguồn gốc làm nẩy sinh cảm giác này còn nằm ở quan niệm xã hội. Đó là lòng tin, sự tôn trọng, coi trọng và kì vọng ( như đã nói ở trên) vào trẻ. Cùng với “ tấm gương” của người lớn, của bạn bè xung quanh đã gây tác động tâm lý quyết định lập trường sống mới, nguyện vong và rung động mới của VTN với xã hội.
Giai đoạn này tre thường năng nổ hoạt động để tự khẳng định mình với gia đình, bạn bè và xã hội. Song cũng ở đó trẻ còn tồn tại hai đặc tính “tính trẻ con” và “ tính người lớn”. “Tính người lớn “ thôi thúc trẻ làm mọi việc ù khó khăn để đạt mục đích : khẳng định mình. Nhưng năng lực bị hạn chế, “tính trẻ con” cản trở. Hai đặc thính này trái ngược cản trở sự trưởng thành của trẻ, cũng là nguồn gốc sinh ra xung đột trong mối quan hệ của người lớn và trẻ vị thành niên ( mâu thuẫn này nói rõ ở phần sau ).
3.1. hoạt động học tập :
Đối với nhiều em sự hấp dẫn của nhà trường tăng lên rõ rệt.
Thái độ học tập : có trách nhiệm, ý thức tự giác cao, chủ động trong học tập, thích khám phá mở rộng tin tức.
Phương pháp học : có khả năng tự học tự nắm bắt tài liệu theo sở thích và nhu cầu riêng của cá nhân. Đây là một kiểu của hoạt động học tập cao, mới về chất ở lứa tuổi này.
Hứng thú bền vững với môn học liên quan đến một ngành tương ứng, một sản phẩm cụ thể được xác lập nhưng kết quả học tập cao tập trung phần lớn vào lứa tuổi cuối VTN ( PTTH ).
Nhưng đây cũng là thời kỳ trẻ bắt đầu “trượt dốc” trong học tập. Học tập có thể bị xem nhẹ nếu có hứng thú mạnh mẽ với lĩnh vực khác. Coi học tập là phụ, việc lĩnh hội tri thức không đứng vị trí quan trọng nữa. Đây là thời điểm trẻ VTN dễ bị lôi kéo sa đà nhất :Trẻ có thể đứng đầu một nhóm bạn ; thích chú ý đến thời trang ; vui chơi. ..
Nguyên nhân của hiện tượng “ trượt dốc” là :
Không xác định đúng nhiệm vụ học tập là chủ đạo.
Phương pháp lĩnh hội tài liệu không đúng đắn, làm kiến thức giảm dần, giảm sút, dãn đến mất hứng thú học tập trẻ chuyển sang hứng thú với lĩnh vực khác, thậm chí bỏ học.
Không được giáo dục thường xuyên và kịp thời của gia đình và nhà trường trong giai đoạn “ khủng hoảng tâm lý” này.
3.2 hoạt động giao tiếp :
Hoạt động giao tiếp là hoạt động quan trọng của tuổi VTN. Ta đi xem xét hai mối quan hệ của trẻ VTN với bạn bè và cha mẹ.
-Bạn bè : là loại giao tiếp đứng thứ nhất. Hoạt động giao tiếp với bạn cùng lứa tuổi là hoạt động nổi trội. Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Hạnh Phúc về nhu cầu kêt bạn thân của lứa tuổi đầu và giữa VTN ( THCS ) : 74,61% cảm thấy rất cần ; 17,66% thấy cần. Như vậy chúng coi bạn thân giống “cái tôi thứ 2 của mình”, để tìm sự bình đẳng tôn trọng và khẳng định giá trị của bản thân.
Cuối tuổi VTN, tình bạn khác giới càng phát triển những rung động tâm lý trong chúng xuất hiện một tình cảm đặc biệt : tình yêu. Tình yêu học trò thường trong sáng, thuần khiết, lý tưởng, giàu cảm xúc, ước mơ, nhưng lại thiếu bền vững và dễ đổ vỡ.
Trẻ VTN không thể sống thiếu tình bạn, sự bất hoà trong quan hệ bạn bè, bạn thân và đổ vỡ trong tình yêu đầu đời đều đem lại những cảm xúc và tổn thương tâm lý nặng nề cho trẻ - các nhà tâm lý gọi là “bi kịch cá nhân”. Sự tảy chay và đơn độc là trải nghiệm nặng nề nhất với cá nhân. Hoàn cảnh này dễ dẫn tới việc thực những hành vi sai trái, lệch chuẩn mực xã hội.
Bố mẹ : giao tiếp này đứng vị trí thứ hai sau quan hệ bạn bè. Giai đoạn này trẻ VTN có khuynh hướng độc lập thích khẳng định, chúng thường muốn tham dự vào sự việc trong gia đình muốn góp ý kiến giải pháp hay hành động. Nếu cha mẹ nắm bắt và ứng xử phù hợp với đặc điểm tâm lý này của VTN, quan gệ giữa cha mẹ và con cái là cùng chiều, hoà hợp và ổn định. Nếu cha mẹ thiếu tin tưởng ngăn cản hành động khẳng định tất yếu sẽ kéo theo quan hệ ngược chiều, gây ra xung đột. Điều này lý giải vì sao dưới cái nhìn của cha mẹ, các em là đứa “cứng đầu”, “ bất trị”.
Việc nắm bắt đặc điểm tâm lý VTN và có ứng xử phù hợp của cha mẹ, nhà giáo dục là yêu cầu quan trọng cho việc dạy bảo trẻ ở giai đoạn này.
3.3 sự phát triển nhân cách :
Tự ý thức và đánh giá bản thân :
Tự ý thức phát triển cao, chúng coi mình nhân cách độc lập, có quyền được tin cậy, tôn trọng như người lớn. Chúng tự ý thức được Cái tôi bản thân ; Cái tôi hiện thực ; Cái tôi động lực ; Cái tôi lý tưởng và cái tôi viễn tưởng.
Nhìn chung chúng đánh giá mình cao hơn hiện thực, thổi phồng khả năng của bản thân, luôn cho mình là đúng và hành động theo suy nghĩ với ý kiến riêng.
Đánh giá người khác :
Giai đoạn đầu VTN , trẻ đánh giá sự việc, cá nhân thông qua đặc điểm bề ngoài, qua quan sát. Do ít trải nghiệm nên đánh giá thường khắt khe, cứng nhắc và mang tính cực đoan. Kết quả của sự đánh giá này sẽ quy định tình cảm của trẻ với đối tương đánh giá là tốt hay xấu.
Giai đoạn giữa và cuối VTN đánh giá đi sâu vào đặc điểm bên trong. Do trải nghiệm khả năng suyđoán, phán đoán và nhận thức nhạy bén nên các đánh giá thường chính xác và tập trung.
Phát triển ý chí :
Ý chí : Là khả năng tự xác định cho hành động và hướng hành động của mình khắc phục khó khăn nhằm đạt mục đích đó (Từ điển Tiếng Việt, 1994 - NXBGD)
Trẻ VTN thường vươn lên theo các hình mẫu lý tưởng (Nhân vật trong phim, truyện, lịch sử. ..), từ đó hình thành nên các phẩm chất : Sức mạnh, lòng can đảm , chịu đựng, chung thuỷ. .. Vì ý chí này chúng có thể bắt chấp mọi nguy hiểm, hành động liều lĩnh táo tợn. Nam VTN thường thích đọ sức gây gổ để chứng minh ưu thế và thoả mãn sự tương đồng của bản thân với hình mẫu của mình. Nữ VTN thích thể hiện tài năng, khéo léo, phô chương hình thức đường nét. .. Nhằm quyến rũ và lôi cuốn sự chú ý từ bạn khác giới.
Vấn đề đặt ra cho việc định hướng hình mẫu lý tưởng của trẻ VTN như thế nào thì thích hợp ? Thực tế đã cho thấy nếu xây dưng được một hình mẫu đúng đắn, hợp chuẩn mực xã hội thì sự phát triển ý chí, phẩm chất và lối sống của trẻ trở nên tích cực, lành mạnh. Ngược lại, những hình mẫu lệch chuẩn lại là nguyên nhân chủ yếu đưa các em vào guồng quay của lề thói xấu lối sống lệch chuẩn, những hành vi bị pháp luật ngăn cấm.
Lứa tuổi VTN như các cụ ta đã từng nói “có lớn mà không có khôn”. Có “lớn” vì về mặt cơ thể trẻ lớn nhanh chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng chưa có “khôn” vì VTN chưa trưởng thành về mặt tâm lý, xã hội, chưa hiểu biết sâu sắc về các vấn đề liên quan đến gia đình, xã hội, nghề nghiệp. Khi gặp những hoàn cảnh hoặc sự cố không thuận lợi trong cuộc sống hằng ngày, VTN dễ bị khủng hoảng tâm lý, mất cân bằng. Trong những hoàn cảnh khó khăn như thế, không ít em đã tìm đến giải pháp như : Sa đà, nghiện ngập, buông thả trong quan hệ tình dục. ..
Phần tiếp theo xin trình bày nguyên nhân và một số hành vi bất thường (hay rối nhiễu tâm lý ) mà trẻ VTN hay mắc phải.
II. Những rối nhiễu tâm lý VTN :
Rối nhiễu tâm lý VTN : Là trạng thái tâm lý chứa những hành vi bất thường ;Là hành vi về đạo đức, kém hay bất thích nghi, đau buồn trầm uất. Những hành vi này cản trở sự phát triển bình thường, hoàn chỉnh, suy mãn của trẻ VTN, và ảnh hưởng đến người khác. Chúng có thể biến tướng thành nhiều dạng - nghiện ma tuý, mại dâm, các hành vi phạm tội, bạo lực, phiền muộn và tự tử.
1. Nguyên nhân của rối nhiễu tâm lý :
Nguyên nhân khiến trẻ VTN có những hành vi về đạo đức, kém hay bất thích nghi và đau buồn. ..Bao gồm các yếu tố sinh lý, tâm lý, văn hoá xã hội, giáo dục.
-Về yếu tố sinh lý : người ta tin rằng sự trục trặc chức năng của cơ thể chịu trách nhiệm cho các rối loạn tâm thần của cá nhân. Ngày nay các nhà khoa học tập trung vào quá trình hoạt động của não - như sự dẫn truyền cuả các nhóm nơron, các yếu tố di truyền ; Lượng hoócmôn là nguyên nhân gây ra những hành vi bất thường. Từ góc độ y học, những rối loạn tâm lý này có thể chữa được bằng thuốc.
-Về yếu tố tâm lý : Là nguyên nhân quan trọng nhất sinh ra các hành vi bất thường. Những suy nghĩ méo mó, xáo trộn cảm xúc, khó khăn trong học tập và rắc rối trong mối quan hệ khiến VTN rơi vào trạng thái Stress đã góp phần nảy sinh hành vi bất thường.
Căn nguyên của sự rối loạn tâm lý thường bắt nguồn từ những kinh nghiệm xã hội - do căng thẳng với cha mẹ hoặc bất đồng với người khác ; Xung đột và tan vỡ hạnh phúc gia đình ; Khai trừ ra khỏi nhom bạ. ..
-Về yếu tố văn hoá xã hội : Đây cũng là yếu tố tác động đến tâm lý VTN, nói cách khácđó là tác động của môi trường xã hội. Một môi trường xã hội có chất lượng cuộc sống tốt, nhu cầu sống của trẻ được thoả mãn, văn hoá lành mạnh sẽ hạn chế rất nhiều những rối nhiễu tâm lý. Một môi trường xã hội nghèo khó, điều kiện thiếu thốn, tệ nạn xấu hoành hoành là mảnh đát màu mỡ dẫn trẻ VTN bước lệch khỏi chuẩn mực xã hội phát sinh nhiều hành vi bất thường.
-Về yếu tố giáo dục : Đây được coi là yếu tố quyết định trong mọi nền văn hoá. Trẻ VTN được giáo dục đạo đức, tri thức một cách có hệ thống và toàn vẹn sẽ tự ý thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong đa số các trường hợp. Một số nhà tâm lý nghiên cứu thấy rằng : Đại đa số trẻ VTN có hành vi bất thường, phạm pháp, là do chúng không được giáo dục về hậu quả của những hành vi mình làm .
Các yếu tố sinh lý, tâm lý, văn hoá xã hội và giáo dục có tác động qua lại, phối hợp với nhau tạo nên hành vi cá nhân, dù là bình thường hay bất bình thường. Vì vậy trong quá trình giáo dục tâm lý trẻ VTN cần tác động riêng rẽ và tổng thể vào từng yếu tố mới hy vọng đạt được kết qủa tốt.
2. Các rối nhiễu tâm lý :
2.1. Thuốc lá, rượu, ma tuý :
Kể từ thủa ban sơ, loài người luôn tìm kiếm các chất có thể duy trì cuộc sống bảo vệ họ, đồng thời tạo ra những cảm giác dễ chịu nhằm vuốt êm thân kinh họ trong hoàn cảnh bức bối gian khó. Người ta bị hấp dẫn bởi các chất kích thích vì nó giúp ta thích nghi được với môi trường đang thay đổi.
Hút thuốc, uống rượu và sử dụng ma tuý làm giảm những căng thẳng chán nản, giả phóng sự buồn tẻ và mệt mỏi. Ma tuý tạo cảm giác dễ chịu, yên ổn, niềm vui, thư giãn, những ảo giác đầy màu sắc, niềm phấn kích trào dâng. Trẻ VTN có thể thấy cuộc sống của mình tốt đẹp hơn, ở đó chúng không bị xung đọt tâm lý dằng xé.
Trẻ VTN sử dụng rượu, thuốc lá và ma tuý làm thoả mãn tính tò mò, hiếu động. Một số bị cám dỗ lôi kéo qua bạn bè xấu, qua phương tiện truyền thông (sách, báo, internet...).
Việc sử dụng nhóm các chất kích thích làm thoả mãn cá nhân và cảm giác thăng hoa tức thời phải trả một cái giá đắt : Lệ thuộc vào chúng ; Huỷ hoại bản thân ; Phá rối xã hội, mắc căn bệnh chết người (viêm phổi, ADIS. ..). Cùng với sự lệ thuộc thể chất là lệ thuộc về tâm lý. Đó là dựa vào thuốc cá nhân mới thấy khoẻ khoắn, tự tin, bớt căng thẳng. Rượu là một chất kích thích cực mạnh. Nó tác động lên cơ thể như một loại thuốc giảm đau và làm chậm hoạt động của não. Nếu sử dụng với liều lượng nhất định nó sẽ phá hoại, thậm chí giết chết các mô mạch bao gồm cả các tế bào và cơ bắp. Rượu làm giảm sự kiềm chế và suy yếu khả năng phán đoán. Cuối cùng người uống trở nên uể oải, hôn mê và dần rơi vào trạng thái không làm chủ được hành vi của mình.
Tình trạng trẻ VTN sử dụng thuốc lá, ma tuý trên thế giới liên tục tăng. Trong thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, xu hướng lạm dụng m a tuý bùng nổ rộng khắp, nhất là trong giới trẻ. Nước Mỹ vào thập niên 90, trẻ VTN lạm dụng ma tuý cao nhất trong số nước công nghiệp.
Ở nước ta, tỉ lệ người nghiện ma tuý trong độ tuổi VTN càng trở nên phổ biến hơn trong gần một thập kỷ qua. Số lượng VTN sử dụng các chất kích thích thường tập trung ở nơi trung tâm về phát triển du lịch, kinh tế, văn hoá : Tỉ lệ này cao nhất ở Hà Nội, thứ hai là Sài Gòn, Quảng Ninh, Hải Phòng.
Vậy chúng ta cần phải làm gì để ngăn ngừa trẻ VTN lạm dụng chất kích thích ? Cha mẹ, bạn cùng trang lứa và sự ủng hộ của xã hội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ngăn ngừa trẻ VTN lạm dụng ma tuý. Những mối quan hệ tích cực với cha mẹ, anh em ruột thịt, người lớn, bạn bè sẽ làm giảm nguy cơ này.
- Một nghiên cứu của Toydryfoos (1990) đã tóm tắt vai trò của trường học trong việc ngăn ngừa sử dụng chất kích thích trẻ VTN như sau :
1. Trường học can thiệp càng sớm càng tốt, nhất là khi phát hiện sử dụng ma tuý ở trẻ. Trường cấp II được xem lý tưởng nhất để triển khai công trình chống lạm dụng ma tuý trường. Tuy nhiên sự can thiệp của trường học đòi hỏi phải xuyên suốt từ lớp 1- 12 với các mức độ thích hợp. Cần yêu cầu học sinh thực hiện mọi chương trình đưa ra.
2. Trang bị kiến thức liên quan đến tuyên truyền tác hại ma tuý và chất kích thích cho giáo viên. Chương trình tốt được thực hiện tốt hơn với một giáo viên giỏi.
3. Huấn luyện kỹ năng xã hội, nhất là kỹ năng chống lại áp lực lôi kéo của bạn bè.
4. Thực hiện hình thức “nêu gương” để giáo dục trẻ VTN. Có chương trình giáo dục riêng dành cho từng nhóm trẻ riêng biệt hơn là dùng đại trà cho mọi trẻ VTN.
5. Giáo dục nhà trường kết hợp, mở ra cộng đồng, huy động tham gia của cha mẹ, bạn cùng lứa, phương tiện truyền thông đại chúng, cảnh sát, toà án, doanh nghiệp cơ quan dịch vụ trẻ VTN. Cần triển khai chương trình với nội dung và phương pháp xác thực.
2.2. Trộm cắp, nóng giận và bạo lực :
Khi bị ức chế tâm lý, nhu cầu đòi hỏi của cá nhân không được đáp ứng dễ sinh ra hành vi trộm cắp. Trộm cắp ở tuổi VTN mang mục đích và động cơ rõ ràng. Bước đầu là những hành vi ăn cắp vặt của gia đình, bạn bè cùng trang lứa, sau đó dẫn đến hàng loạt vụ trộm cắp có quy mô lớn ngoài xã hội, nảy sinh tình trạng phạm pháp.
Theo quan điểm Frik Erikson trẻ VTN mà sự phát triển cản trở họ đóng những vai trò được xã hội chấp nhận ; Hoặc khiến hị cảm thấy mình không thể đáp ứng yêu cầu đặt lên vai họ, thì họ sẽ chọn lấy một chân giá trị tiêu cực . Trẻ VTN có chân giá trị tiêu cực sẽ tìm thấy hình ảnh hậu thuẫn của sự phạm pháp của mình trong số những bạn cùng trang lứa, cùng gia cố chân giá trị tiêu cực như họ. Vậy là theo Erikson phạm pháp VTN tức là cố gắng thiết lập một chân giá trị, dù là chân giá trị tiêu cực.
Khi chân giá trị của trẻ VTN không được xã hội chấp nhận hoặc bị lên án, sẽ phát sinh tâm lý nóng nảy, giận dữ, chống đối và đỉnh cao của hoạt động tâm lý là các hành vi bạo động.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho biết tình trạng gây gổ, đánh nhau của VTN trong các trường học gia tăng. Nhiều trẻ VTN dễ dàng cầm dao chém người, hung hăng, gây thương tích cho người khác, đôi khi dẫn đến hậu quả thảm khốc. Họ cũng đưa ra một số giải pháp nhằm làm giảm tình trạng gây lộn ở trẻ VTN như : Dạy dỗ chúng trong môi trường an toàn ; Cham mẹ thể hiện tình yêu thương, chăm sóc sức khoẻ thể chất tinh thần cho trẻ, điều chỉnh kịp thời hành vi lệch lạc, khuyến khích những hành vi đúng đắn. Tăng cường giáo dục trong nhà trường, nhất là nhóm trẻ cói nguy cơ cao. Thiết lập mối quan hệ nhà trường, gia đình và xã hội tạo điều kiện cho trẻ phát triển theo hướng tích cực.
2.3.Quan hệ tình dục ở trẻ VTN :
Không riêng ở nước ta mà ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, những vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản VTN đang nổi lên những vấn đề quan tâm lớn của cộng đồng. ở Hà Lan theo thống kê gần đay nhất mỗi năm có khoảng 7.000 ca nạo phá thai ở độ tuổi VTN. ở Anh số lượng này là 89.000 ca mỗi năm. Theo số liệu của bộ y tế nước ta, số ca nạo phá thai hằng năm ở độ tuổi VTN khoảng 120.000 lượt, chiếm 12% số người nạo phá thai ở mọi lứa tuổi. Điều đáng quan tâm ở đây có đến 80% VTN có thai mà không biết hoặc không hiểu mình có thai. Độ tuổi trung bình có quan hệ tình dục lần đầu là 14,5 tuổi (Xuân Sơn - TCTLH số 1/2005).
Đây là con số thật đáng lo ngại. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này ? Tôi xin đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau :
Những biến đổi thể chất đi kèm những biến đổi về tâm lý trong cơ thể VTN vào thời kỳ dậy thì. Sự bài tiết hoócmôn ở giai đoạn này làm phát triển cơ chế tính dục : Những xốn xang ban đầu của các em gái, sự cương cứng, thủ dâm ở em trai, những xung năng làm cho nam nữ biểu lộ bản năng tính dục.
Do VTN chưa trưởng thành hoàn toàn về mặt tâm lý xã hội, chưa hiểu biết sâu sắc các vấn đề liên quan đến giáo dục, xã hội, nghề nghiệp. ..Khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hoặc sự cố không thuận lợi trong cuộc sống hằng ngày, VTN dễ khủng hoảng về tâm lý, dễ tìm kiếm chỗ dựa tình cảm ở bạn khác giới. Cùng với việc họ chưa thực sự có ý thức về quan hệ tình dục, hôn nhân nên các bạn trẻ mới lớn dễ vượt qua giới hạn.
Cha mẹ và nhà trường còn ngại cung cấp những kiến thức về sinh lý về hoạt động tình dục, tránh thai, họ sợ “vẽ đường cho hươu chạy” hoặc chỉ bảo không đến nơi đến chốn, dẫn đến các em thiếu hiểu biết về giới tính, sinh lý sinh sản và các kĩ năng sống.
Môi trường sống cũng tác động mạnh mẽ lên nhận thức, hành vi của trẻ VTN. Một số trẻ VTN bị ảnh hưởng bởi tấm gương xấu trong gia đình và học chính gia đình mình những hành vi lệch lạc : Cha mẹ cặp bồ, xung đột cãi vã, chứng kiến quan hệ giường chiếu của bố mẹ,. .. Một số trẻ VTN bị cám dỗ qua phim ảnh, sách báo đồi trụy, lối sống hưởng thụ. ..Sự lôi kéo đồng cảm hành vincủa nhóm bạn tạo cảm giác được đồng tình, ủng hộ và cổ vũ trong trẻ VTN là nhân tố kích thích tích cực lên hành vi lệch lạc này.
Có những trường hợp do hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em phải lên thành phố để kiếm tiền, chúng phải ngủ trong những nhà trọ rẻ tiền hoặc ngủ ngay trên hè phố nguy cơ bị lừa gạt, bị lạm dụng tình dục là rất cao.
Giáo dục ý thức giới tính của gia đình, nhà trường và các hoạt động làm trong sạch môi trường sống được xem là yếu tố tích cực để hạn chế hành vi này.
.Trầm uất, phiền muộn :
Cá nhân trải qua giai đoạn trầm uất, với những đặc điểm như thẫn thờ, mụ mẫm, vô vọng ít nhất trong hai tuần liền hay hơn, được coi như bị rối loạn tâm lý nặng. hiệp hội tâm thần Mỹ đã xác định 9 triệu chứng của các giai đoạn trầm uất như sau:(John W.Sansantrock, tìm hiểu thế giới tâm lý VTN, tr 280).
Tâm trạng u uẩn suốt ngày.
Giảm hứng thú hay niềm vui với hết thảy các hiện tượng.
Giảm cân hay tăng cân, giảm vị giác, ăn mất ngon hoặc ăn vô độ
Mất ngủ hay ngủ ly bì.
Rối loạn tâm lý hoặc lờ đờ.
Thể trạng yếu, mất sinh khí.
Cảm thấy vô dụng, tội lỗi một cách thái quá.
Gặp vấn đề về suy nghĩ, tập trung hay đưa ra quyết định.
Suy nghĩ luẩn quẩn hoặc nghĩ đến tự sát
Trẻ bị mắc 5 trong 9 triệu chứng trên là coi như đã mắc bệnh.
Trầm uất còn biểu hiện qua nhiều hình thức khác : Mặc toàn màu đen, thu mình trong bónh tối, lãnh cảm, nghe nhạc than vãn, nghỉ học thường xuyên. ..
Hậu quả bệnh trầm uất rất kinh khủng. Khoảng 1/3 trẻ VTN trầm uất phải điều trị tâm lý hoặc trong bệnh viện tâm thần. Quá trình điều trị rất lâu dài và khó khăn (có thể dùng thuốc nhưng rất hạn chế ).
Theo nghiên cứu trẻ gái có tỷ lệ trầm uất cao hơn trẻ trai. Nguyên nhân có thể là : trẻ gái có khuynh hướng phóng đại tâm trạng u uẩn của mình, chúng chú ý đến hình ảnh bản thân nhiều hơn và nghiêng về tiêu cực hơn, phải đối mặt với thành kiến và sự thiên vị nhiều hơn.
Các chuyên gia sức khoẻ tâm thần cho rằng sự trầm uất của trẻ là do những rối loạn tâm lý bất thường ở trẻ. Yếu tố gia đình và bạn cùng trang lứa cũng liên quan đến trầm uất. Cha mẹ trầm uất là điều kiện tốt gây ra trẻ trầm uất thời thơ ấu và kéo dài sang tuổi VTN. Cha mẹ vô cảm, chìm ngập trong mâu thuẫn hôn nhân, gặp khó khăn về kinh tế thường dẫn đến trạng thái trầm uất ở con cái tuổi VTN . Trẻ không có bạn thân, bị bạn bè tẩy chay cũng làm tăng xu hướng trầm uất, phiền muộn ở VTN. Những kinh nghiệm thay đổi, cha mẹ ly hôn, bùng phát thời dậy thì, chuyển trường này qua trường khác, chuyển chỗ ở. .. Cũng có thể gây ra trầm uất ở trẻ.
2.5.Tự tử:
Đây là một vấn đề rất nóng bỏng trong xã hội. Sự tự sát ở lứa tuổi thiếu niên ngày một gia tăng ở các nước. Tỷ lệ tự sát đã tăng lên gấp 3 lần trong gần 30 năm trở lại đây ở Mỹ : Mỗi năm có khoảng 25.000 người tự sát bắt đầu từ nhóm tuổi 15.
Ở Việt Nam tự tử VTN tập trung chủ yếu vào nhóm học sinh cuối cấp do áp lực quá căng thẳng của học tập, thi cử.
Tự tử thường xảy ra sau một chấn thương tâm lý nặng. Những trường hợp có nhiều sức ép như : Mất bạn trai, bạn gái, đổ vỡ trong tình yêu, thi trượt, có thai ngoài ý muốn . .. Là nguyên nhân nhen nhóm cho việc tự tử. Sự bất ổn định và khó khăn bức bối trong lịch sử lâu dài của gia đình, sự thiếu thốn tình cảm và sự ủng hộ tinh thần, đè nén và áp lực phải thành công của bố mẹ đều là nguyên nhân gây ra khủng hoảng tâm lý, trầm cảm và dẫn đến tự tử. Một khi các yếu tố di truyền liên quan đén bệnh trầm cảm thì chúng cũng liên quan đến tự sát. Mối quan hệ di truyền của người này đối với một người khác đã từng tự sát càng gần thì khả năng tự tử của người đó càng cao.
Những trẻ VTN có ý định tự tử thường có các triệu chứng trầm cảm, người ta coi đây là nhân tố quyết định dẫn đến tự tử trẻ VTN, bởi cảm giác thất vọng, bế tắc và đau khổ.
Trong trường hợp này, người xung quanh cần tôn trọng trẻ, chân thành lắng nghe, ủng hộ, chia sẻ mọi nỗi niềm của trẻ, tìm cách giúp đỡ và lôi cuốn trẻ vào những hoạt động bổ ích , nhằm thông thoáng tâm trạng bức bí và trầm cảm của trẻ VTN.
III. Một số góp ý với nhà giáo dục trong việc giáo dục trẻ VTN.
Sự biến đổi mạnh mẽ về mặt sinh lý và sự nhạy cảm về tâm lý của trẻ VTN, đòi hỏi sự tác động và điều chỉnh một cách hợp lý của giáo dục.
Giáo dục đóng vai trò quan trọng, cung cấp kiến thức khoa học, những giá trị đạo đức xã hội, định hướng cho sự phát triển nhân cách. Trong giai đoạn phát triển phức tạp của trẻ VTN nếu thiếu sự tham gia của giáo dục hoặc tham gia không hợp lý VTN sẽ rơi vào tình trạng “lệch chuẩn”.
Giáo dục trẻ VTN đòi hỏi có sự phối kết chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội , phải căn cứ vào những đặc điểm và những diễn biến tâm lý của các em, lấy đó là cơ sở nền tảng cho mọi biện pháp giáo dục.
Gia đình là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ VTN. Hơn ai hết cha mẹ phải là người xây dựng cho chúng “tấm gương” tốt, cung cấp kiến thức cơ bản về “SKVTN” ( liên quan đến các yếu tố vệ sinh thời dậy thì ); kiến thức về phát triển sinh lý, về tình bạn khác giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH (6).doc