Hiện nay, trong nông thôn Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới thực thi chính sách quản lý đất đai với những điểm nổi bật sau: Một là, Tăng cường quản lý hành chính về đất đai như là một ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất cũng như thị trường đất đai đã hình thành trước đây, cũng như việc thực hiện sự công bằng xã hội đối với đất đai bằng cách đưa tên người vợ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai là, thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một trong những khó khăn chủ yếu của phát triển sản xuất lớn để phát triển nông nghiệp trong hội nhập. Ba là, Dân số ở nông thôn sẽ không giảm, nên cách tiến hành cần mềm dẻo, linh hoạt, cần phát huy sức mạnh trí tuệ của cộng đồng, cũng như cần có những tác động hỗ trợ cần thiết khác để đạt được kết quả như mong đợi. Bốn là, Việc thực hiện chính sách đất đai ở nông thôn cũng là một vấn đề trọng điểm không chỉ ở đồng bằng mà cả ở vùng trung du, miền núi. Lý do là sự tác động của phong tục, tập quán, luật tục của bà con địa phương. Cần chú ý đến tập quán sử dụng đất này, bởi quyền sử dụng đất truyền thống có thể đóng góp tích cực vào quản lý rừng và giảm nghèo ở vùng cao nơi có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số. Vậy, cần phải tiến hành thận trọng đối với đất rừng và đất chưa sử dụng tại vùng dân tộc thiểu số, nơi vẫn giữ các cơ cấu xã hội truyền thống, và hợp pháp hóa các diện tích đất đai mà trước đây chính quyền địa phương đã giao một cách không chính thức cho các cộng đồng (khoảng hơn 1 triệu ha). Cần tiến hành đồng thời cải cách các lâm trường quốc doanh”. Năm là, quá trình sử dụng đất đai và sự hiện diện của thị trường đất đai cho thấy sự báo động về những bất trắc một khi nông dân nghèo bán đất; mặt khác, khả năng tập trung đất từ nhiều trang trại nhỏ hiện nay là rất hạn chế. Hậu quả xã hội xảy ra một khi nông dân mất ruộng đất, kéo theo nó là những rủi ro và các vấn đề xã hội nảy sinh.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số suy nghĩ về tác động của WTO đối với nông nghiêp Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xuyên cho gần 400 nghìn lao động nông nghiệp ở nông thôn (gấp 1,7 lần so với năm 2001).
Lao động kỹ thuật trong những năm qua có xu hướng tăng lên. Năm 2005, số lao động này chiếm 4,2% tổng số lao động nông nghiệp của cả nước. Lao động kỹ thuật bậc cao có tăng lên (năm 1999 – là 2,3%; năm 2005 – 3,8%). Tuy vậy, nếu nhìn toàn cục, thì đội ngũ có chất lượng lao động kỹ thuật cao chưa tăng mạnh mẽ.
Xét tổng quát, sự chuyển đổi cơ cấu hộ gia đình từ lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sang các lĩnh vực kinh tế khác còn rất chậm. Và ở các vùng miền không đồng đều.
Kinh tế nông thôn Việt Nam vẫn còn mang nặng tính chất thuần nông. Tình hình thất nghiệp trá hình còn lớn (do thừa lao động, do thiếu việc làm, nông nhàn, v.v.) . Theo thống kê của Bộ TBLĐ-XH thời gian làm việc bình quân của 1 lao động nông nghiệp chỉ chiếm 80% thời gian lao động cả năm. Còn trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp chỉ chiếm khảng 76%. Đây là một trong những nguyên nhân “đẩy” người dân nông thôn ra đô thị tham gia vào dòng chuyển cư nông thôn-đô thị, nông thôn-nông thôn, và một bộ phận tham gia vào xuất khẩu lao động.
Bảng 3:
Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế
%
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Sơ bộ 2006
TỔNG SỐ
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước
9.3
9.3
9.5
9.9
9.9
9.5
9.2
Kinh tế ngoài Nhà nước
90.1
89.7
89.4
88.8
88.6
88.9
89.2
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
0.6
0.9
1.1
1.3
1.5
1.6
1.6
Phân theo ngành kinh tế
Nông nghiệp và lâm nghiệp
62.5
60.6
58.7
57.0
55.4
53.8
52.1
Thuỷ sản
2.6
2.8
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
Công nghiệp
10.3
11.0
11.5
12.3
12.7
13.5
14.3
Xây dựng
2.8
3.3
3.9
4.2
4.6
4.7
4.6
Thương nghiệp
10.4
10.5
10.8
11.2
11.5
11.6
11.7
Khách sạn, nhà hàng
1.8
1.8
1.8
1.8
1.8
1.8
1.8
Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc
3.1
3.1
3.0
2.9
2.9
2.7
2.6
Văn hoá, y tế, giáo dục
3.6
3.7
3.8
3.9
4.0
4.1
4.2
Các ngành dịch vụ khác
2.9
3.1
3.3
3.5
3.7
4.4
5.2
[Nguồn: Tổng cục Thống kê]
2.3 – Những cam kết Việt Nam phải thực hiện khi vào WTO
Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là người nông dân nghèo. Theo quy định của WTO về nông nghiệp, nước xin gia nhập vào tổ chức thương mại này phải thoả mãn 2 điều kiênh:
Giảm trợ cấp nông nghiệp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và sản xuất,
Tăng mức độ mở của thị trường của mình, hay nói cách khác, là tăng sự tiếp cận thị trường cho các quốc gia thành viên của WTO.
Sau khi ký kết và trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp ngay sau khi gia nhập WTO. Việt Nam sẽ có 5 năm quá độ cho việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu dưới dạng khuyến khích đầu tư.Việt Nam đã cam kết thực hiện những điều khoản vệ sinh an toàn thực phẩm ngay sau khi hội nhập, đồng thời Việt Nam sẽ cắt giảm mức thuế quan đối với các mặt hàng nông nghiệp. Hiện tại mức thuế quan bình quân trong nông nghiệp của Việt Nam là 27%, rất nhiều khả năng mức thuế này sẽ bị cắt giảm xuống khoảng 15%. Một cam kết nữa là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt nhằm giảm thiểu tác động của đột biến nhập khẩu đối với giá cả các mặt hàng chăn nuôi như thịt heo, thịt bò... điều này sẽ gây thiệt thòi cho người nông dân. Điều đó dẫn đề những thuận lợi và khó khăn cho nông nghiệp Việt Nam hội nhập vào WTO.
2.4 - Những thuận lợi, khó khăn khi Việt Nam đã là thành viên WTO
Để thực hiện những cam kết và hội nhập vào sân chơi của WTO. Việt Nam đang gặp những
2.4.1- Sự cạnh tranh về giá cả trong thương mại
Nhiều tổ chức thế giới đã và đang hỗ trợ giúp Việt Nam phát triển, trong đó có Ngân hàng thế giới (WB). Trong những công bố của mình (WB) luôn quan tâm khuyến cáo Việt Nam về những thách thức của WTO đối với Việt Nam, nhất là nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực dễ tổn thương nhất, trong đó nhấn mạnh sự cạnh tranh trong thương mại nông nghiệp. Theo WB, thử thách lớn của Việt Nam khi gia nhập WTO chính là sự chuyển động chậm chạp trong thương mại nông nghiệp của Việt Nam. Bởi khi vào WTO, nông sản sẽ hầu như lưu thông tự do với thuế suất giảm, thậm chí bằng 0, và do vậy, nước nào yếu kém hơn sẽ thua. Chính vì thế, Việt Nam phải thương mại hóa nông nghiệp hơn nữa: Gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội cho việc tăng tốc trở lại của thương mại nông nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển nông thôn và bổ sung cho nhu cầu của thị trường nội địa. Lý do là:
Thế mạnh xuất khẩu nông nghiệp Việt Nam là lúa gạo. Song chỉ dựa vào lúa gạo thì chưa kích thích nổi vai trò của sản xuất của các ngành nghề khác.
Những hàng hóa nông sản mà Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, một số cây ưu tiên cho xuất khẩu (như cây bông vải), hoặc có thể gặp phải rủi ro do quá thiên lệch vào một số chủng loại như bắp/ngô, mà chưa chú trọng phát triển những cây trồng, vật nuôi có thế mạnh cho xuất khẩu như lạc, đỗ, bông v.v.). Vậy sản xuất cây công nghiệp của Việt Nam cần chú trọng không chỉ về số lượng mà cả năng suất nữa. Để bán hàng hoá WTO đòi hỏi không chỉ số lượng mà chất lượng sản phẩm, những với giá cạnh tranh.
Việt Nam gia nhập WTO, hàng hoá nông nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt, Việt Nam vẫn có những lợi ích mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống. Đồng thời, Việt Nam có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
Ngoài sản xuất khẩu gạo, Việt Nam còn rất nhiều sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh như cà phê, điều, hồ tiêu... các sản phẩm thuỷ sản )như cá tra, ba sa...). Đây là những sản phẩm mà các nước lớn hầu như có ít lợi thế. Tuy nhiên cần có hình thức trợ giúp người nông dân một cách hợp lý, và minh bạch những hình thức trợ giúp đó cho nông dân để tránh thiệt hại do bị kiện bán phá giá.
2.4.2 - Đất đai, thị trường lao động, di dân nông nghiệp thời hội nhập luôn di, biến động. Với tư cách thành viên WTO, vấn đề hết sức nổi cộm của nông nghiệp Việt Nam là: để sản xuất theo hướng hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp, cần tập trung giải quyết bài toán ruộng đất: Do thực hiện khoán hộ trong quá trình Đổi mới nên nảy sinh một hiện trạng đất đai canh tác nông nghiệp quá “manh mún” không sản xuất lớn được. Hơn thế, việc thi hành Luật đất đai (1993 và 2003) cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhu cầu sản xuất tập trung, chuyên canh trên diện tích rộng để cơ giới hoá nông nghiệp, với quyền sử dụng đất giao cho các hộ gia đình nên vấp phải vấn đề làm sao tích tụ đủ ruộng đất để có thể vận dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tăng sản lượng, năng suất cho cây trồng, nhất là những cây xuất khẩu. Mặt khác, về khía cạnh xã hội, Việt Nam lại phải giải quyết các mâu thuẫn “điền chủ” trong xã hội nông thôn - vấn đề quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Hiện nay, trong nông thôn Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới thực thi chính sách quản lý đất đai với những điểm nổi bật sau: Một là, Tăng cường quản lý hành chính về đất đai như là một ưu tiên hàng đầu nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất cũng như thị trường đất đai đã hình thành trước đây, cũng như việc thực hiện sự công bằng xã hội đối với đất đai bằng cách đưa tên người vợ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai là, thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một trong những khó khăn chủ yếu của phát triển sản xuất lớn để phát triển nông nghiệp trong hội nhập. Ba là, Dân số ở nông thôn sẽ không giảm, nên cách tiến hành cần mềm dẻo, linh hoạt, cần phát huy sức mạnh trí tuệ của cộng đồng, cũng như cần có những tác động hỗ trợ cần thiết khác để đạt được kết quả như mong đợi. Bốn là, Việc thực hiện chính sách đất đai ở nông thôn cũng là một vấn đề trọng điểm không chỉ ở đồng bằng mà cả ở vùng trung du, miền núi. Lý do là sự tác động của phong tục, tập quán, luật tục của bà con địa phương. Cần chú ý đến tập quán sử dụng đất này, bởi quyền sử dụng đất truyền thống có thể đóng góp tích cực vào quản lý rừng và giảm nghèo ở vùng cao nơi có nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số. Vậy, cần phải tiến hành thận trọng đối với đất rừng và đất chưa sử dụng tại vùng dân tộc thiểu số, nơi vẫn giữ các cơ cấu xã hội truyền thống, và hợp pháp hóa các diện tích đất đai mà trước đây chính quyền địa phương đã giao một cách không chính thức cho các cộng đồng (khoảng hơn 1 triệu ha). Cần tiến hành đồng thời cải cách các lâm trường quốc doanh”. Năm là, quá trình sử dụng đất đai và sự hiện diện của thị trường đất đai cho thấy sự báo động về những bất trắc một khi nông dân nghèo bán đất; mặt khác, khả năng tập trung đất từ nhiều trang trại nhỏ hiện nay là rất hạn chế. Hậu quả xã hội xảy ra một khi nông dân mất ruộng đất, kéo theo nó là những rủi ro và các vấn đề xã hội nảy sinh.
III - Tác động của sự hội nhập vào WTO đến nông nghiệp Việt Nam hiện nay
3.1 - Những tác động lớn, toàn diện đến nên nông nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, Những cú sốc bắt nguồn từ bên ngoài giống như việc rớt giá các nông sản (từ toàn cầu hóa/gia nhập WTO), đặc biệt ở những vùng chuyên canh một vài loại cây trồng: việc sụt giảm thu nhập từ cà phê sau khi bị rớt giá vào cuối những năm 1990 nên các hộ sản xuất nhỏ sống dựa vào trồng cà phê phải tìm kiếm thêm việc làm khác để bổ sung thu nhập. Tương tự như vậy nhưng ở mức độ nhẹ hơn, nông dân ở các vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long cũng bị ảnh hưởng bởi sự rớt giá nông sản trên thị trường thế giới, và đã xuất hiện xu hướng thoát ly khỏi nông nghiệp và tăng việc làm công ăn lương. Tại các vùng khác, việc tăng lao động làm công phần nhiều do yếu tố hấp dẫn của các hoạt động phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn làm nông nghiệp. Những thay đổi này - bao gồm cả những thay đổi tích cực - đang dần rõ nét và mãnh mẽ hơn khi là thành viên WTO.
Thư hai, Giá cả các loại hàng hóa khác thay đổi, nhất là vật tư nông nghiệp nhập từ thị trường thế giới, tất yếu gây ra những tác động của, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Hệ quả là, chi phí đầu tư đầu vào và giá cả bán ra thị trường, nhất là hàng hóa nông nghiệp xuất khẩu, luôn bị điều chỉnh bởi các tác động này.
Thứ ba, sự không ổn định của giá xăng dầu thế giới luôn làm thay đổi chi phí cho sản xuất nông nghiệp, và kéo theo là giá nông sản, thực phẩm lên xuống. Thứ tư, sự biến động này còn phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng của các nước khác. Chẳng hạn như, vào tháng 3/2008, Chính phủ đã yêu cầu giảm xuất khẩu lương thực không vượt quá 2,8 triệu tấn Bản tin VTV ngày 28 tháng 3 năm 2008.
. Vấn đề ở đây là phải đảm bảo an ninh lương thực trong nước, đảm bảo lợi ích cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam.
Thứ năm, trong cuộc chơi WTO còn có một số điểm ảnh hưởng đến cuộc sống và an ninh lương thực bởi: 1/ Sự trợ giá của các nước phát triển cho nông nghiệp, kìm hãm phát triển sản xuất ở các nước đang phát triển. Hiện vẫn còn nhiều nước phát triển vẫn duy trì các hình thức hỗ trợ, trợ cấp nông nghiệp ở mức cao, gây ảnh hưởng đến sự công bằng, kìm hãm phát triển sản xuất ở các nước đang phát triển. Sự trợ giá này có ảnh hưởng sâu sắc đến sự cạnh tranh của các mặt hàng nông sản của nước ta, đặc biệt ảnh hưởng tới các nhà sản xuất nhỏ. Sự cạnh tranh và thương mại bất bình đẳng có nguy cơ dẫn đến rủi ro mất sinh kế, hoặc mất các hoạt động sản xuất truyền thống. ở một số nước, chủ yếu là các nước phát triển, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân được Nhà nước cấp một khoản hỗ trợ nhằm tạo sự cân bằng thu nhập. Các khoản hỗ trợ có thể được thanh toán trực tiếp (tiền mặt) hoặc gián tiếp (trợ giá vật tư nông nghiệp, hoặc các chính sách ưu đãi khác). Cho dù tính theo cách nào thì các hình thức hỗ trợ này cũng khiến cho người nông dân sản xuất ngày càng nhiều nông sản, mà thực tế giá thành thực chất dưới giá trị của sản phẩm. Sự khuyến khích này dẫn đến sự gia tăng sản lượng nông nghiệp. Sự dư thừa trên thị trường nội địa của các nước phát triển dẫn đến nhu cầu xuất khẩu ngày càng lớn. Việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp được trợ cấp này chính là sự cạnh tranh phá giá đối với sản phẩm các nước đang phát triển. Với sự cạnh tranh dưới giá thành lớn như thế thì các nhà sản xuất nhỏ và đại bộ phận nông dân ở các nước đang phát triển khó có thể 'đứng vững' được. Vì các đối tượng này cơ bản thiếu vốn và thiếu trình độ kỷ thuật; thiếu kiến thức, kỹ năng, phương pháp liên kết và hợp tác. Những tổ chức như thế sẽ có nguy cơ phá sản rất cao. Các tổ chức này phá sản sẽ kéo theo hàng loạt người lao động có nguy cơ mất việc làm, mất nguồn thu nhập chính. Vì thế họ sẽ phải đứng trên bờ vực thẳm của sự nghèo nàn và tụt hậu. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ có cơ hội phát triển.; 2/ Sự mở cửa thị trường nông phẩm, việc các tác nhân gây hại có điều kiện lây lan là không tránh khỏi. Tự do hoá thương mại làm cho một số loại sản phẩm nông sản có thể gây nên sự ngộ nhận về giá trị kinh tế ở các nước đang và chậm phát triển. Trong khi đó, các loại sản phẩm biến đổi gen, hoặc các loại sản phẩm chứa mầm gây bệnh có tác hại xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng sẽ dễ dàng được nhập khẩu vào thị trường các nước đang phát triển hơn. Với hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm yếu hoặc chưa đồng bộ về phương tiện kỹ thuật, việc ngăn chặn các loại sản phẩm này là một vấn đề khó khăn cho các nước đang phát triển; 3/ Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng sẽ dẫn đến việc du nhập giống từ bên ngoài. Với hệ thống kiểm định chất lượng sản phẩm yếu và chưa đồng bộ về phương tiện kỹ thuật, việc ngăn chặn các loại sản phẩm này là một vấn đề khó khăn cho các nước đang phát triển nói chung và cho nước ta nói riêng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn và không bảo đảm được an ninh lương thực và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người nông dân, nhất là nông dân nghèo.
3.2 - Những cơ hội và thách thức nông nghiệp Việt Nam với tư cách là thành viên WTO
3.2.1 - Những cơ hội cho phát triển nông nghiệp Việt Nam
Khi Việt Nam (VN) gia nhập WTO thị trường sẽ mở rộng cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời VN có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những xử kiện vô lý như cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Khi là thành viên của WTO, VN sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng có tiếng nói cùng với 149 nước khác khi WTO thảo luận các quy chế mới của WTO.
3.2.2 - Những thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam
Tuy nhiên, thách thức đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là đối với việc xoá đói giảm nghèo là rất lớn: Việt Nam là một nước có 69% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 45% dân số ở nông thôn sống dưới mức nghèo.
i) Thách thức lớn nhất là nông nghiệp Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, phải đương đầu với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực thi các điều khoản cam kết, việc cắt giảm thuế quan và các trợ cấp nông nghiệp, việc Việt Nam không được tiếp cận đối với cơ chế tự vệ đặc biệt cho các sản phẩm chăn nuôi... Tất cả khó khăn là việc không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần thời gian và sự hỗ trợ của các bên để giảm thiểu những rủi ro này.
ii) Thách thức đối với sản xuất nông nghiệp nước ta
Vi những nông dân đang trồng bắp, mía, cà phê, tiêu... thách thức nhiều hơn cơ hội. Nhất là nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh về giá vì giá bắp nhập về sẽ rẻ hơn do phải cắt giảm thuế quan, chẳng hạn hiện áp thuế với bắp nhập từ Mỹ là 10% sẽ không còn.
iii) Những thách thức đối với ngành chăn nuôi bao gồm: Một là, đối với ngành chăn nuôi Việt Nam, theo đánh giá của tổ chức Oxfam Anh, đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi của Việt Nam hiện tại rất là thấp. Cụ thể như năng suất sản xuất thấp hơn 30% so với mức sản xuất của thị trường quốc tế, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm chăn nuôi thị trường nội địa đều có mức cạnh tranh thấp hơn so với cạnh tranh quốc tế. Hai là, Việt Nam sẽ phải đối mặt là trợ cấp của các nước giàu cho ngành chăn nuôi, ví dụ một con bò của EU được hưởng trợ cấp một ngày là 2,62 USD, nhiều hơn thu nhập của người nông dân nghèo Việt Nam. Như vậy, các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam phải cạnh tranh với các nước giàu. Ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đương đầu với hệ thống sản xuất rất tân tiến và hiệu quả của họ vì những nước có truyền thống phát triển nông thôn theo thông lệ quốc tế mà WTO đã áp đặt, và họ tuân thủ. Trong khi đó chăn nuôi ở Việt Nam còn mang nặng tính chất cá thể (chăn nuôi hộ gia đình); sự kiểm dịch còn hạn chế. Ba là, Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt để chống lại những đột biến về nhập khẩu cho những mặt hàng chăn nuôi (thịt heo, thịt bò, v.v.). Như vậy, trong trường hợp khi Việt Nam mở cửa thị trường một cách mạnh mẽ thì việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu có tiềm năng sẽ tác động đến giá của các mặt hàng trong nước. Trong khi đó, trình độ sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt Nam còn quá thấp, đặc biệt là của nhóm người nghèo thì họ phải cạnh tranh trên một sân chơi không bình đẳng; Bốn là, cam kết hội nhập yêu cầu Chính phủ Việt Nam sẽ phải cắt giảm trợ cấp nông nghiệp trong đó có trợ cấp của ngành chăn nuôi, cắt giảm thuế quan và như vậy có tác động đối với người chăn nuôi, đặc biệt là người chăn nuôi nghèo; Năm là, thách thức về thương mại đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng thế giới (WB) đã khuyến cáo Việt Nam: Có thể sử dụng nhiều biện pháp xúc tiến thương mại (nhưng không bằng phương pháp hỗ trợ bao cấp xuất khẩu), đặc biệt thông qua hỗ trợ của Nhà nước cho các hiệp hội sản xuất hàng hóa nhằm hỗ trợ nông dân đối phó với những bất lợi trong thương mại, bằng cách hỗ trợ người nông dân bằng những hỗ trợ dài hơi hay ngắn hạn để có thể giúp nông dân nghèo trong trường hợp khẩn cấp như cung cấp các nguyên vật liệu đầu vào thiết yếu nhằm phục vụ sản xuất, cung cấp tín dụng ưu đãi, bằng các hỗ trợ dài hạn thông qua nghiên cứu và khuyến nông sẽ tạo cơ hội cho nông dân chuyển hướng ra khỏi những cây trồng không được thị trường ưa chuộng.
iv) Khi hội nhập WTO, lao động nông nghiệp giảm, chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, địch vụ. Theo Nghị định 66/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 7 năm 2006, Chính phủ chủ trương phát triển các nghành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, bao gồm: 1. Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản; 2. Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ khí nhỏ; 3. Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; 4. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; 5. Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh; 6. Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn; 7. Tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề; tư vấn sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn Nghị định 66/2006/NĐ-CP Về phát triển ngành nghề nông thôn, ngày 07 tháng 7 năm 2006.
. Như vậy, sản xuất nông nghiệp sẽ chịu tác động của chính sách nay. Lý do một bộ phận lao động nông nghiệp có cơ hội chuyển sang hoạt động lao động sản xuất phi nông nghiệp. Những ngành nghề này một khi phát triển, làm tăng sự hội nhập vào thị trường quốc tế. Mặt khác, nền sản xuất nông nghiệp chịu thêm thử thách: một bộ phận nông dân có khả năng, trình độ sẽ bị thu hút vào lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Như vậy, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp theo đòi hỏi của WTO.
Lối thoát nào để trợ giúp nông nghiệp? Về nguyên tắc, WTO không cấm tất cả các hình thức hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước vẫn có thể tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu triển khai, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục phát triển nguồn nhân lực. WTO cũng cho phép nhiều hình thức hỗ trợ vùng nghèo và một số khâu trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, Nhà nước cần giúp cho nông dân tiếp cận các thông tin về thị trường bên cạnh việc định hướng thị trường sản xuất gì và làm ở mức độ như thế nào. Điều này sẽ tạo nhiều cơ hội cho nông dân trong việc cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại. Do vậy, để phát triển nông nghiệp thời kỳ hội nhập vào WTO, việc tăng cường trang bị kiến thức, hỗ trợ kỹ thuật, cách thức sản xuất tiên tiến cho người dân nông thôn thông qua chính hoạt động của khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cần được đặt lên hàng đâu, có như thế mới bảo vệ được người nông dân trong sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
3.3 - Tác động của việc gia nhập WTO đối với nguồn lực nông nghiệp Việt Nam
Những cam kết và quy định của WTO đối với sản xuất, buôn bán, trao đổi, thương mại, nông nghiệp Việt Nam chịu những tác động sau đây:
Chiểu theo cam kết, khu vực đầu tư nước ngoài buộc phải mở cửa thị trường và cắt giảm thuế quan; Khu vực nông nghiệp, nơi tập trung nhiều lao động, chịu sự tác động mạnh của các điều khoản về thương mại này;
Việc gia nhập WTO đã và đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế, và qua đó Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tron đó Việt Nam phát huy tiềm năng của Việt Nam mà các nước thành viên khác không có được.
Vào WTO buộc Việt Nam phải thực hiện việc chuyển đổi lực lượng lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp sang làm việc ở các lĩnh vực phi nông nghiệp; đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức cho lao động nông nghiệp, nhất là nông dân; Kinh tế phát triển nên tăng nhu cầu về lao động và tạo thêm việc làm mới;
Việc tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang thu hút sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng lên; hệ quả là làm cho hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế cũng tăng lên, mở ra cơ hội, việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao động, tăng lượng xuất khẩu hàng hóa có nguồn gốc từ sản phẩm nông nghiệp, từ đó thúc đẩy nông nghiệp phát triển,
Những cơ hội việc làm mở rông cùng với tiền công hấp dẫn hơn tạo ra sự di chuyển lao động từ nông thôn đến đô thị, từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. từ nơi thu nhập thấp đến nơi thu nhập cao, … tạo ra sự di động lao động trong xã hội nông thôn Việt Nam;
Hoạt động xuất nhập khẩu mở rộng, hàng hóa Việt Nam có nhiều cơ hội hội nhập vào các thị trường trên các nước khác nhau, làm tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, nhất là đối với những sản phẩm nước ta có ưu thế cạnh tranh (hàng nông sản, dệt may,…), nhất là ngành sử dụng nhiều lao động như nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu;
Hội nhập WTO làm tăng đầu tư nuớc ngoài vào các lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp, sơ chế biến nông sản, mở mạng những vùng đất hoang hóa, kích thích những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà họ đang có thị trường. Nhờ đó, lao động nông nghiệp Việt Nam có thêm việc làm; người tiêu dùng có thêm những sản phẩm rẻ, tốt hơn do cạnh tranh;
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nông thôn nói riêng cần phải cơ cấu lại để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài,. Điều đó làm nảy sinh cơ hội cho những hoạt động trong khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp;
Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay tạo đà cho quá trình đô thị nông thôn nhanh; mặt khác thu hút nhiều lao động dư thừ từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực sản xuất phi nông, dịch vụ, thương nghiệp, v.v. đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Việc hội nhập WTO tác động đến chính bản thân lĩnh vực nông nghiệp: Từ chỗ, nông nghiệp Việt Nam là một nền sản xuất quan trọng, các khu vực trọng yếu được đầu tư phát triển để tăng cường sự thâm nhập vào thị trường các nước thành viên. Hệ quả là làm tái cấu trúc hoạt động sản xuất nông nghiệp theo những hướng mũi nhọn nhằm phục vụ và đáp ứng tiêu dùng nội địa, cũng như xuất khẩu đáp ứng nhu cầu từ các nước thành viên khác;
Để ổn định hoạt động lao động của mình, người lao động nông nghiệp Việt Nam phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, thay đổi cách thức sản xuất nông nghiệp từ thói quen sản xuất thủ công, phân tán, manh mún sang cách thức sản xuất hàng hóa, có tính chuyên môn hoá cao. Để đáp ứng điều đó, hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đóng một vai trò quan trọng. Dịch vụ này cần được hoàn thiện để xứng tầm với đòi hỏi phát triển nông nghiệp;
Để tham gia có hiệu quả trong sân chơi WTO, trong khu vực nông nghiệp diễn ra quá trình tất yếu nhằm cơ cấu lại lực lượng lao động nông nghiệp, nâng cao trình độ lao động trong khu vực nông nghiệp, bởi vì: các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đem theo những công nghệ mới, kể cả những công nghệ cao, … lực lượng lao động nông nghiệp Việt Nam cần được đào tạo để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Lý do là giá thành sử dụng lao động tại chỗ rẻ hơn so với giá thuê lao động từ nước khác đến làm việc tại Việt Nam;
Sự tăng lên của đầu tư và thương mại trong nông nghiệp, nông thôn tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay trong sản xuất nông nghiệp: cơ cấu lại vùng nguyên liệu, vùng sản phẩm, vùng cây trồng chuyên, chăn nuôi chuyên theo hướng hàng hóa, v.v. làm cho định hình những khu v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ TÁC ĐỘNG CỦA WTO.doc