Tiểu luận Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

MỤC LỤC

A - ĐẶT VẤN ĐỀ 2

B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2

I - Một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước 2

1. Khái niệm khiếu nại và giải quyết khiếu nại. 2

2. Khái niệm tố cáo và giải quyết tố cáo. 3

3. So sánh giữa khiếu nại và tố cáo. 3

4. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại, tố cáo 4

II – Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo. 5

1. Vai trò của khiếu nại, tố cáo 5

2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo. 9

III- Thực trạng giải quyết khiếu nại tố cáo và một số giải pháp. 10

1. Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam hiện nay. 10

2. Một số giải pháp trong hoạt động khiếu nại, tố cáo. 10

 

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6908 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước xem xét lại các quyết định, hành vi mà họ cho là trái pháp luật, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã quy định khái niệm giải quyết khiếu nại như sau: “ Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại” ( khoản 13 Điều 2). Như vậy giải quyết khiếu nại gồm 3 giai đoạn: xác minh tình tiết, nội dung vụ việc khiếu nại, kết luận về tính đúng sai, cơ sở pháp lý của nội dung khiếu nại, ra quyết định giải quyết khiếu nại. 2. Khái niệm tố cáo và giải quyết tố cáo. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó…vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn”. Theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt thì tố cáo là quyền của công dân phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân nói chung, mang không gây thiệt hại trực tiếp cho công dân thực hiện việc tố cáo”. Trong pháp luật nước ta, lần đầu tiên Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 đã quy định khái niệm tố cáo: “ Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” ( khoản 2 Điều 2). Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định trong hiến pháp. Bản chất của tố cáo là việc công dân phát hiện và báo cho cơ quan nhà nước biết về hành vi VPPL nào đó diễn ra trong đời sống xã hội. Chủ thể thực hiện quyền tố cáo là mọi công dân. Đối tượng của tố cáo rất rộng, bao gồm tất cả các hành vi VPPL do bất kì người nào thực hiện. Thông qua việc tố cáo VPPL, nhà nước có được một nguồn thông tin về những hành vi VPPL diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, qua đó cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền kiểm tra xem xét để có biện pháp xử lý. Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 quy định khái niệm tại Khoản 14 Điều 2 Luật Khiếu nại tố cáo về “ giải quyết tố cáo là việc xác minh, kết luận nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo”. Giải quyết tố cáo gồm 3 giai đoạn: kiểm tra, xác minh nội dung tố cáo; kết luận về tính đúng đắn, khách quan nội dung tố cáo; xử lý hành vi VPPL của người tố cáo và giải quyết những vấn đề liên quan đến nội dung theo quy định của pháp luật. 3. So sánh giữa khiếu nại và tố cáo. Giữa khiếu nại và tố cáo có điểm chung là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức khi bị xâm phạm. Khiếu nại và tố cáo đều có chung căn cứ là VPPL. Vì vậy các thông tin do khiếu nại, tố cáo mang đến đều là những thông tin phản ánh VPPL do vậy, về bản chất giải quyết khiếu nại, tố cáo là giải quyết xử lý VPPL. Mặc dù giữa khiếu nại và tố cáo có quan hệ gần gũi nhau nhưng giữa chúng có sự khác nhau về nội dung, tính chất, đặc biệt là sự điều chỉnh của pháp luật. Về chủ thể: chủ thể của khiếu nại là công dân, tổ chức, cơ quan – những người có quyền lợi liên quan trực tiếp tới hành vi VPPL, còn chủ thể của tố cáo chỉ có thể là công dân - người không có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp tới hành vi VPPL. Về đối tượng: đối tượng của khiếu nại là QĐHC, HVHC mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng của tố cáo là những hành vi VPPL của bất cứ một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Về mục đích: mục đích của người khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, còn mục đích của người tố cáo là nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể nói chung. Về trách nhiệm pháp lý: người khiếu nại không phải chịu trách nhiệm khi khiếu nại không có căn cứ còn người tố cáo phải chịu trách nhiệm pháp lý khi cố tình tố cáo sai sự thật. Khiếu nại và tố cáo còn khác nhau về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phương thức giải quyết. 4. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại, tố cáo Pháp chế là một vấn đề rộng và riêng định nghĩa của nó đã có rất nhiều quan điểm khác nhau. Ở đây tôi xin nêu ra một vài quan điểm để chúng ta tham khảo. Theo giải thích của từ điển Bách khoa Việt nam thì: pháp chế XHCN được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác Hiến pháp và luật của mọi chủ thể các quan hệ pháp luật”. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Học viện hành chính quốc gia năm 2001 quan niệm: “ Pháp chế XHCN là chế độ pháp luật, trong đó đòi hỏi phải tôn trọng thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thường xuyên đối với các QPPL của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, cán bộ công chức, các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, của mọi công dân; đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm vi phạm Hiến pháp và pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi VPPL”. Quan niệm này đã mở rộng phạm vi nội hàm của khái niệm pháp chế, coi pháp chế là chế độ pháp luật, đồng thời trong chế độ đó chứa đựng tư tưởng: tôn trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật của các chủ thể pháp luật. Quan niệm này một mặt đã khẳng định rằng muốn có pháp chế trước hết phải có pháp luật đồng thời pháp luật đó phải là pháp luật thể hiện tính công bằng và phải đạt đến một trình độ văn minh nhất định. Ở nước ta quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước là một hoạt động của quyền hành pháp do đó hoạt động này cũng phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế. Đây là một hoạt động nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm pháp chế và kỉ luật trong quản lý nhà nước, chính vì thế hoạt động này phải đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo và pháp luật khác có liên quan. Tư tưởng, nguyên tắc tuân thủ pháp luật đã được quy định từ khi có Luật khiếu nại, tố cáo 1998: “ Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện theo pháp luật”. Nội dung pháp chế trong quản lý hành chính gồm 2 nội dung chính là bảo đảm việc ban hành các văn bản quy phạm hành chính và đảm bảo việc thực hiện các văn bản đó đúng pháp luật. Như vậy việc bảo đảm pháp chế trong hoạt động khiếu nại tố cáo của các cơ quan hành chính là bảo đảm cho một cơ chế pháp lý rõ ràng, cụ thể bằng việc ban hành các luật hoặc văn bản dưới luật về hoạt động khiếu nại tố cáo. Các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo việc tổ chức thực hiện và sau đó là chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát việc thực hiện theo pháp luật của hoạt động này. Khiếu nại và tố cáo có những vai trò rất lớn trong hoạt động quản lý nhà nước và xã hội vì vậy chúng ta phải có các biện pháp hữu hiệu để đảm bảo pháp chế xung quanh hoạt động này. II – Vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo. 1. Vai trò của khiếu nại, tố cáo So với hoạt động lập pháp và tư pháp, hoạt động quản lý hành chính nhà nước hay còn gọi là hoạt động “ chấp hành- điều hành” là hoạt động diễn ra phổ biến, thường xuyên và liên tục. Đây là hoạt động phức tạp triển khai ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, rất nhạy cảm và thường tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Yếu tố quyền uy phục tùng đã chi phối khá nhiều đến mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Việc sử dụng quyền lực nhà nước không đúng pháp luật rất dễ xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy việc khiếu nại, tố cáo của công dân trong quản lý hành chính nhà nước trở nên quan trọng và được coi là yếu tố không thể thiếu để đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Thứ nhất, khiếu nại tố cáo là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Nhìn nhận ở một góc độ tổng quát quyền khiếu nại, tố cáo là quyền để bảo vệ quyền. Tức là khiếu nại, tố cáo là phương tiện pháp lý có hiệu quả để công dân tự bảo vệ các quyền lợi của mình khi bị xâm hại trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Pháp luật hành chính trên cơ sở cụ thể hoá các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân sẽ xác lập địa vị pháp lý của công dân trong quản lý hành chính nhà nước. Trước các hành vi hay quyết định vi phạm hoặc trái pháp luật của các chủ thể quản lý tác động tới, gây thiệt hại tới quyền lợi hợp pháp hoặc gây nên bức xúc, thắc mắc trong nhân dân thì lúc này pháp luật đã dự liệu trước và cung cấp cho họ một công cụ pháp lý để giải quyết vấn đề đó, là quyền được khiếu nại và tố cáo. Quyền khiếu nại, tố cáo giúp củng cố và bảo vệ địa vị pháp lý của công dân trong mối quan hệ với các chủ thể quản lý hành chính. Không chỉ tự bảo vệ mình trước các hành vi hay quyết định vi phạm, khi công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo sẽ tạo tiền đề cơ sở để công dân thực hiện các quyền khác có liên quan và cũng bảo vệ quyền lợi của họ như quyền khởi kiện, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Quyền khiếu nại, tố cáo tạo tiền đề để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo từ điển Tiếng Việt “ yêu cầu” là đòi hỏi, tỏ ý muốn và cần điều gì đó. Dưới góc độ pháp lý, quyền yêu cầu là các cơ quan, tổ chức, cá nhân tổ chức có thẩm quyền phải thực hiện (hoặc không thực hiện) những hành vi nhất định nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền chủ thể của mình. “Bồi thường” là đền bù những tổn hại gây ra. Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm pháp lý dân sự. Trong quản lý hành chính nhà nước “bồi thường” được hiểu là trách nhiệm bồi thường vật chất nhằm buộc các bên có hành vi gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần. Khi công dân có căn cứ cho rằng QĐHC, HVHC trái pháp luật, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì ngoài việc đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi đó, họ còn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và đều là quyền chủ thể. Về lí luận, bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi QĐHC, HVHC bị khiếu nại, tố cáo được xác định là trái pháp luật, xâm phạm và gây thiệt hại cho công dân. Tuy nhiên cũng như quyền khiếu nại, tố cáo, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là quyền chủ quan của chủ thể khiếu nại. Do vậy trong mọi trường hợp khi khiếu nại, tố cáo công dân luôn có quyền yêu cầu bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Việc sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm mục đích yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại các vấn đề để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Còn việc yêu cầu bồi thường thiệt hại cho công dân chủ yếu nhằm mục đích yêu cầu cơ quan nhà nước khắc phục những thiệt hại do hành vi sai phạm bị khiếu nại, tố cáo gây ra. Hiện tại nhà nước ta đang tiến hành xây dựng dự thảo Luật bồi thường nnhà nước. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền khiếu nại, tố cáo trong quản lý hành chính nàh nước. Quyền khiếu nại, tố cáo là tiền đề quan trọng cho quyền khởi kiện Khi có căn cứ cho rằng QĐHC, HVHC trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của mình, công dân sẽ phản kháng bằng cách khiếu nại hay tố cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu xem xét lại các quyết định, hành vi đó. Ngoài ra công dân có thể khởi kiện ra toà án nhân dân yêu cầu toà án huỷ các quyết định trái pháp luật. Nhìn chung các quốc gia đều ghi nhận và coi trọng cả việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và việc khởi kiện. Cả hai đều la quyền trong hệ thống quyền của công dân trong quản lý hành chính nhà nước. Tham khảo vấn đề này ở các nước trên thế giới, có rất nhiều quốc gia quy định, trước khi công dân khởi kiện phải thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo trước. Các quốc gia này coi khiếu nại và tố cáo là khâu bắt buộc trước khi khởi kiện ra toà. Một số nước mặc dù không quy định khiếu nại và tố cáo là bắt buộc nhưng cho phép công dân lựa chọn hoặc là thực hiện quyền khiếu nại tố cáo hoặc là thực hiện quyền khởi kiện. Tại sao quyền khiếu nại, tố cáo thường được đặt trước quyền khởi kiện? Ta thấy rằng quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động phức tạp, đa dạng, đòi hỏi các chủ thể cần phải ban hành, thực hiện nhiều QĐHC, HVHC. Mặt khác hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng đòi hỏi các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có quyền chủ động, sáng tạo khi ban hành các quyết định. Chính vì vậy đôi khi việc ban hành các QĐHC hay việc thực hiện các HVHC của các chủ thể quản lý chịu sự chi phối bởi ý chí chủ quan của các chủ thể QLHC nhà nước ngay tại thời điểm ban hành và thực hiện. Vì vậy khi có sự phản kháng của nhân dân nên chăng cho phép chủ thể quản lý hành chính được tự xem xét các QĐHC, HVHC của mình để họ tự khắc phục và sửa chữa. Một lý do nữa để có thể ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo trước quyền khiếu kiện đó là bản thân công dân chịu sự tác động trực tiếp của những quyết định này. Và họ luôn cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm hại. Sự nhân thức chủ quan đó khiến họ khiếu nại cả những quyết định, hành vi đúng pháp luật. Vì vậy việc quy định công dân nên thực hiện quyền khiếu nại tố cáo trước khi thực hiện quyền khởi kiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan có thẩm quyền giải thích cặn kẽ đầy đủ để công dân hiểu được việc khiếu nại của mình là không có căn cứ. Điều này sẽ củng cố niềm tin của công dân vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ những phân tích trên có thể khẳng định khiếu nại, tố cáo là một phương tiện để tự vệ của người dân. Việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo là xuất phát điểm cũng như là cơ sở để công dân thực hiện các quyền khác để tự bảo vệ mình. Thứ hai, thông qua hoạt động khiếu nại và tố cáo của nhân dân đã khẳng định mối quan hệ cần thiết giữa nhà nước và công dân; thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân, được nhân dân giao cho nhà nước. Cho nên trong mọi trường hợp quyền lực nhà nước phải được sử dụng vì lợi ích nhân dân. Thứ ba, như đã giải thích ở trên khiếu nại và tố cáo chủ yếu là vạch trần những sai phạm, bất hợp lý trong quản lý hành chính nhà nước. Chúng ta khoan hãy nói tới nội dung của khiếu nại, tố cáo của người dân là đúng hay sai nhưng thông qua hoạt động này công dân đã cùng giúp cho nhà nước ngăn ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm và tiêu cực xã hội. Mà đây là một vấn đề rất nan giải cần phải có sự chung tay, giúp sức của toàn xã hội chứ không phải là nhiệm vụ riêng của bất kì một cơ quan, tổ chức nào. Quyền khiếu nại và tố cáo được sử dụng góp phần ngăn chặn hiện tượng tiêu cực như lạm quyền, quan liêu, thiếu trách nhiệm, vi phạm thẩm quyền xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, Nhà nước. Thứ tư, công dân sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội trong sạch, vững mạnh. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo sẽ tạo cơ hội thuận lợi để công dân phát huy một cách có hiệu quả nhất quyền làm chủ của mình ( làm chủ xã hội, làm chủ Nhà nước). Thông qua đó công dân sẽ phát giác được rất nhiều hành vi VPPL của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong cơ quan quản lý nhà nước từ đó phát hiện ra những cán bộ công chức không đủ tư cách, thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ công chức. Hoạt động này giúp các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền cấp dưới. Ví dụ: Công dân có hành vi vi phạm đèn tín hiệu giao thông, hình thức xử phạt là phạt tiền và tạm giữ phương tiện 30 ngày. Nhưng người cảnh sát giao thông đã lập biên bản và ra quyết định tạm giữ phương tiện 45 ngày. Công dân có thể khiếu nại đến thủ trưởng đơn vị cảnh sát giao thông đó về quyết định xử phạt trên. Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp các cơ quan chức năng phát hiện ra những việc làm sai trái, vô trách nhiệm của cán bô, công chức thông qua các đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân. Đây chính là cơ sở để chúng ta hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có chuyên môn, nghiệp vụ cao và trong sạch, vững mạnh. Việc khiếu nại và tố cáo vừa được xem là hiện tượng phản ánh chân thực kết quả hoạt động quản lý nhà nước vừa được xem là phương thức giám sát của công dân đối với thực thi quyền lực Nhà nước. Dưới góc độ chính trị, quyền khiếu nại, tố cáo là hình thức để nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước. Bởi vậy quyền khiếu nại trong quản lý hành chính nhà nước được ghi nhận là quyền công dân có ý nghĩa quan trọng trong nền hành chính hiện đại. Nhà nước cần phải quan tâm đến việc bảo đảm cho việc thực hiện các quyền ấy bằng các biện pháp pháp lý cụ thể. Mặt khác, hiệu quả thực hiện khiếu nại, tố cáo của công dân cũng là một trong những tiêu chí đánh giá mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Làm được điều này không những quyền lợi công dân được đảm bảo mà nền pháp chế XHCN cũng được giữ vững và tăng cường. Thứ năm, khi công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo này sẽ giúp các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có những thông tin phản hồi quan trọng từ đối tượng quản lý. Qua đó xem xét đánh giá để hoàn thiện hoặc điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật phù hợp với thực tiễn đời sống nhân dân cũng như thực tiễn quản lý hành chính nhà nước ( Ví dụ: nhiều chính sách, chủ trương được đề ra mà không có tính thực tiễn, khả thi, qua sự phản hồi của người dân mà các cơ quan chức năng đã có sự điều chỉnh, thay thế hợp lý). Có thể thấy khi ban hành bất kì một QĐHC nào đó chủ thể ban hành cũng hướng tới một xử sự nhất định. QĐHC này phải mang ra áp dụng thực tiễn. Mà muốn biết nó có phù hợp hay không, đã đúng đắn, hoàn chỉnh hay chưa thì chính đối tượng chịu sự tác động của QĐHC này sẽ phát hiện ra chứ không phải là chủ thể của phần lý luận đó. Hơn ai hết nếu các QĐHC hay HVHC đi vào cuộc sống mà nảy sinh bất cập thì người dân sẽ phát hiện ra sai phạm, bất hợp lý trong các quyết định. Và thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước có điều kiện để khẳng định tính đúng đắn trong hoạt động quản lý theo thẩm quyền của mình. Đặc biệt kênh thông tin từ việc sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân sẽ là cơ sở quan trọng để chúng ta xây dựng nền công vụ minh bạch, đóng vai trò phục vụ, phù hợp với xu thế phát triển hành chính hiện đại trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt vai trò của khiếu nại, tố cáo trong việc đảm bảo pháp chế còn được khẳng định hơn nữa trong mối quan hệ với các quyền khác của công dân. 2. Vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bản thân hoạt động khiếu nại, tố cáo là hiện tượng tất yếu khách quan trong quản lý hành chính nhà nước, lại là vấn đề hết sức nhạy cảm. Chình vì thế các chủ thể quản lý ban hành quyền được khiếu nại, tố cáo không thể không ban hành những quy chế pháp lý trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nếu như khiếu nại và tố cáo là tiếng nói phản ánh của người dân thì giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lời lại những tiếng nói đó. Do đó hoạt động này có vai trò hết sức quan trọng trong vấn đề đảm bảo pháp chế, giúp an dân và phát triển. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trước hết là trách nhiệm và nghiã vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Thứ nhất, hoạt động giải quyết khiếu nại và tố cáo giúp các cơ quan nhà nước nhanh chóng phát hiện ra những sai phạm của các cán bộ, công chức, phát hiện ra những bất cập, chưa hợp lý trong các văn bản, quyết định, hành vi. Từ đó các cơ quan chức năng mới có biện pháp để xử lý nghiêm minh những sai phạm này. Thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không những phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm mà còn phát hiện và khắc phục được những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách đã làm cho những mất ổn định trong quản lý hành chính có cơ hội phát sinh, phát triển. Làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một biện pháp thiết thực, có hiệu quả nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân - một nhân tố quan trọng đảm bảo pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý nhà nước. Thứ hai, Bất cứ hành vi vi phạm nào, sau khi giải quyết mà xét thấy đúng như những gì khiếu nại, tố cáo đã nêu đều sẽ bị các cơ quan chức năng đem ra xử lý bằng nhiều hình thức. Chính vì thế để đảm bảo cho pháp luật nghiêm minh và quy củ thì hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo có tác dụng răn đe, ngăn chặn những hành vi sai phạm. Việc ngăn chặn này vô hình trung sẽ làm cho các chủ thể chấp hành đúng quy định của pháp luật trong mọi hoạt động quản lý nhà nước. Chính điều này sẽ làm cho pháp chế được đảm bảo và tăng cường trong hoạt động quản lý nhà nước. Thứ ba, giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện tinh thần nhân đạo, tiến bộ và dân chủ của nước ta. Hoạt động này sẽ bảo đảm tính dân chủ, công khai minh bạch trong quản lý hành chính nhà nước. Giải quyết hợp lý các yêu cầu khiếu bại, tố cáo của công dân lấy được lòng tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước, Đảng, chính phủ; làm sợi dây liên kết Đảng, nhà nước và nhân dân thêm chắc chắn. Đó cũng là tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua những lời văn hết sức bình dị nhưng vô cùng sâu sắc: “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại, ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng thời thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ quần chúng với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn”. III- Thực trạng giải quyết khiếu nại tố cáo và một số giải pháp. 1. Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam hiện nay. Trong những năm qua tình hình khiếu nại, tố cáo ở nước ta diễn biến phức tạp, số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo gia tăng, năm sau cao hơn năm trước, tình trạng khiếu kiện đông người diễn ra trên diện rộng ở nhiều tỉnh thành trong cả nước ( từ 1999 đến 2002 có trên 30 tỉnh, thành phố có khiếu kiện đông người). Theo thống kê từ năm 1999 đến 2005 cả nước có hơn hai ngàn người khiếu kiện đông người, vượt cấp lên trung ương. Các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp gần hai triệu lượt công nhân đến trình bày khiếu nại, tố cáo và kiến nghị phản ánh. Riêng tại trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minhđã tiếp hơn 100 lượt người và gần ba trăm đoàn đông người khiếu nại lên trung ương. Số lượng người đến khiếu nại, tố cáo tại trụ sở tiếp dân của Trung ương Đảng và nhà nước từ năm 1999 đến năm 2002 liên tục tăng mạnh. ( Theo báo cáo số 605/CP- VII ngày 07/5/2004 của Chính phủ về tình hình và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ khi có Luật khiếu nại tố cáo đến hết quý I năm 2004). Qua tổng hợp cho thấy, nội dung khiếu nại tập trung chủ yếu là về đất đai, nhà ở (chiếm tỉ lệ gần 60%). Khiếu nại về việc bắt oan sai, về những việc làm vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Về tố cáo, nội dung chủ yếu là tố cáo cán bộ vi phạm nguyên tắc dân chủ, lợi dụng chức quyền tham nhũng, vi phạm thu chi tài chính, trù dập bao che cho cán bộ sai phạm… b) Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo. 2. Một số giải pháp trong hoạt động khiếu nại, tố cáo. 2.1. Hoàn thiện những vản bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo Hiện nay, các vản bản pháp luật hiện hành quy định về vấn đề này còn phân tán, thiếu đồng bộ, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Ngoài Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, các văn bản khác (Luật đất đai, các luật thuế, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính...) cũng đều có những diều khoản quy định về việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhưng nhìn chung, các quy định này thiếu thống nhất, gây khó khăn cho người khiếu nại, tố cáo và cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, các quy định cụ thể của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân cũng có những điểm chưa hợp lý.Ví dụ: theo tinh thần của Pháp lệnh này, thủ trưởng có quyền giải quyết tố cáo đối với nhân viên thuộc quyền quản lý của mình. Điều này không phù hợp với thực tế. Qua tổng kết 3 năm thực hiện Pháp lệnh cho thấy, không có một trường hợp tham nhũng nào được thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tự mình phát hiện và xử lý. Để nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, điều quan trọng nhất là phải có một cơ chế thích hợp. Cơ chế đó chỉ có thể được hình thành bởi một khung pháp lý. Nghĩa là có một hệ thống các văn bản pháp lý đồng bộ, đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Do đó, việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Công việc này không thể tiến hành một cách tổng quát, chung chung mà phải cụ thể, phải chuyên sâu trong từng phương diện hoạt động quản lý nhà nước như đất đại, xây dựng, kế toán thống kê, quản lý doanh nghiệp… Đồng thời phải có những quy định mang tính nguyên tắc tránh được tình trạng áp dụng pháp luật một cách tuỳ tiện, thiếu nhất quán. 2.2. Xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý và đội ngũ cán bộ đủ mạnh để thực hiện tốt công tác giải quy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước và thực trạng.doc
Tài liệu liên quan