MỤC LỤC
Trang
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT,
DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ .3
1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật .3
2. Các trường hợp phát sinh thừa kế theo pháp luật 3
3. Khái niệm diện thừa kế 4
4. Khái niệm hàng thừa kế .4
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
1. Diện thừa kế .5
a. Căn cứ xác định diện thừa kế .5
b. Người không được quyền hưởng di sản, người từ chối
quyền hưởng di sản, người bị truất quyền hưởng di sản .7
2. Hàng thừa kế .9
a. Bản chất pháp luật về hàng thừa kế .9
b. Hưởng di sản thừa kế theo trình tự hàng 12
3. Thừa kế thế vị .13
a. Khái niệm 13
b. Bản chất pháp luật về thừa kế thế vị .13
III. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ VIỆC
XÁC ĐỊNH DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ .14
IV. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 19
1. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế 19
2. Về thừa kế thế vị 20
3. Về nhường quyền hưởng di sản thừa kế .21
4. Cần ban hành quy định của pháp luật về những người thừa kế
được sinh ra theo phương pháp khoa học hiện đại .21
V. KẾT LUẬN .22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5273 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoặc bàng hệ (không trực tiếp sinh ra nhau nhưng có cùng một nguồn gốc chung: ví dụ như quan hệ giữa anh chị em ruột và ngược lại).
Pháp luật về hôn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha mẹ và nghĩa vụ của người làm cha làm mẹ của con. Quyền thừa kế của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha đẻ, mẹ đẻ.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ nuôi dưỡng:
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng, là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật.
Quan hệ nuôi dưỡng được thể hiện giữa anh chị em ruột đối với nhau trong hoàn cảnh mồ côi cha mẹ hoặc còn nhưng không có khả năng lao động, không có năng lực hành vi dân sự.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, chắt nội, ngoại (Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình).
Quan hệ nuôi dưỡng giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng luật không quy định có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, nhưng trong trực tế, cha dượng, mẹ kế với con riêng của của vợ, chồng đã thể hiện được nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha mẹ con theo Điều 679 BLDS 2005, họ được hưởng thừa kế của nhau.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Việc xác định quan hệ nuôi dưỡng thông qua sự kiện nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Việc nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện do luật hôn nhân và gia đình quy định (Điều 68 và Điều 69).
Ý nghĩa:
Xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật trước hết để xác định những người có quyển hưởng di sản. Sau nữa là loại trừ những trường hợp không thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc thuộc nhưng không có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên 3 mối quan hệ như đã trình bày ở trên. Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng có tình độc lập tương đối, vì quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản với người thừa kế. Chỉ có sự xác định diện những người thừa kế theo quy định pháp luật chuẩn xác mới ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dòng tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện thừa kế.
Người không được quyền hưởng di sản, người từ chối quyền hưởng di sản, người bị truất quyền hưởng di sản
Trong quan hệ thừa kế, những người là vợ hoặc chồng, con… của người chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc là những người được hưởng thừa kế của người chết. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục của nhân dân Việt Nam, xâm hại đến danh dự, uy tín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ, anh, chị, em, vợ, chồng,… Người có những hành vi như vậy không xứng đáng được hưởng di sản thừa kế của người mà họ đã xâm phạm tới. Theo đó, khoản 1 Điều 643 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản:
“a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự định đoạt của người có di sản, người này vẫn có thể được hưởng nếu biết nhưng vẫn viết di chúc cho họ được hưởng.
Người từ chối nhận di sản: được quy định tại khoản 2 Điều 642 BLDS : “Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản”. Quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế được pháp luật thừa nhận với điều kiện việc từ chối nhận di sản không nhằm chốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Việc từ chối nhận di sản cũng cần có điều kiện về thời gian: “Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng, kể từ thời điểm mở thừa kế…”
Tuy nhiên người từ chối nhận di sản có quyền từ chối theo các mức độ kác nhau, họ có thể chỉ từ chối quyền hưởng di sản được chia theo di chúc mà không từ chối quyền hưởng di sản được chia theo pháp luật và ngược lại.
Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật (như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột…) mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình.
Tuy nhiên, do pháp luật không quy định cụ thể như thế nào là “truất” nên hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người lập di chúc không cho người thừa kế nào hưởng di sản theo di chúc thì người đó là người bị truất quyền. Theo quan điểm này thì có hai cách truất quyền khác nhau:
+ Người bị truất quyền hưởng di sản trực tiếp: Là việc người lập di chúc tuyên bố một cách minh bạch trong di chúc rằng một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản trừ trường hợp Điều 669.
+ Người bị truất quyền hưởng di sản gián tiếp: Là việc người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người để hưởng toàn bộ di sản nhưng lại không nói gì đến những người thừa kế theo pháp luật không được chỉ định. Khi đó người thừa kế không được chỉ định trở thành người bị truất quyền hưởng di sản không được nói rõ. Tuy nhiên theo quan điểm này thì người bị truất quyền hưởng di sản không mất tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định.
Hàng thừa kế
Bản chất pháp luật về hàng thừa kế
Hàng thừa kế thứ nhất
Gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Quan hệ thừa kế giữa vợ với chồng và ngược lại:
Vợ sẽ được thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của chồng và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ coi là vợ chồng nếu hai bên nam nữ kết hôn hợp pháp. Đối với quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng cần lưu ý:
Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản.
Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được hưởng di sản thừa kế (khoản 2 Điều 680 BLDS 2005).
Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản (Khoản 3 Điều 680 BLDS 2005).
Đối với trường hợp một người có nhiều vợ, nhiều chồng trước ngày 13/1/1960 ở Miền Bắc, trước ngày 25/3/1977 ở Miền Nam, cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc (trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1975) lấy vợ, lấy chồng khác và kết hôn sau không bị Tòa án hủy bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, người chồng, người vợ được hươnhr thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của tất cả những người chồng (vợ) và ngược lại.
Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ đẻ với con đẻ và ngược lại:
Cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ được thừa kế theo pháp luật của nhau không chỉ là quy địnhb của pháp luật thừa kế Việt Nam mà còn của hầu hết các nước trên thế giới. Con đẻ được hưởng thừa kế của cha mẹ đẻ không kể là con trong giá thú hay con ngoài giá thú và ngược lại.
Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại:
Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ của người nuôi con nuôi. Cha đẻ, mẹ đẻ của người nuôi con nuôi cũng không được thừa kế của người con nuôi đó.
Trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi đó không đương nhiên trở thành con nuôi của người đó, cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật.
Người đã làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, cô, bác, chú, dì, cậu ruột như người không làm con nuôi người khác.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế:
Nếu có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau như cha con, mẹ con thì được hưởng thừa kế tài sản của nhau và còn được hưởng thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 677 và Điều 678 BLDS 2005.
Hàng thừa kế thứ hai
Gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, am ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Quan hệ thừa kế giữa ộng nội, bà nội với cháu nội, giữa ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại và ngược lại:
Ông bà nội là người sinh ra cha của cháu, ông bà ngoại là người sinh ra nẹ của cháu. Nếu cháu (ruột) chết thì ông bà nội, ông bà ngoại ở hàng thừa kế thứ hai của cháu và ngược lại.
Trên thực tế có trường hợp ông bà chết nhưng cha mẹ cháu không được hưởng thừa kế mặc dù vẫn còn sống (bị truất quyền, không có quyền hưởng di sản), trong trường hợp này, cháu ruột của ông bà cũng không được hưởng di sản vì không thuộc hàng thừa kế của ông bà. Xuất phát từ lý do đó, pháp luật có quy định cháu ruột thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà nếu ông bà chết.
Quan hệ thừa kế giữa anh chị ruột với em ruột và ngược lại:
Anh, chị, em ruột là hàng thừa kế thứ hai của nhau. Anh, chị, em ruột có thể cùng cha mẹ, cùng cha hoặc cùng mẹ. Do vậy, không phân biệt con trong giá thú hay con ngoài giá thú, nếu anh, chị ruột chết trước em ruột thì em ruột được hưởng thừa kế của anh chị ruột và ngược lại.
Con riêng của vợ, con riêng của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau. Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh, chị, em của on đẻ người đó. Do đó, con nuôi và con đẻ của một người không phải là người thừa kế hàng thứ hai của nhau.
Người làm con nuôi người khác vẫn được hưởng thừa kế hàng thứ hai của anh chị em ruột mình. Người có anh, chị, em ruột làm con nuôi người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con nuôi người khác đó.
Hàng thừa kế thứ ba
Gồm cụ nội, cụ ngoai của người chết; Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Quan hệ thừa kế giữa cụ nội với chắt nội, giữa cụ ngoại với chắt ngoại và ngược lại:
Cụ nội là người sinh ra ông hoặc bà nội của người đó, cụ ngoại là người sinh ra ông hoặc bà ngoại của người đó.
Trong trường hợp cụ nội, cụ ngoại mất không có người thừa kế là con, cháu hoặc có người thừa kế nhưng họ đều từ chối hoặc bị truất quyền hưởng thừa kế thì chắt sẽ được hưởng di sản của cụ.
Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, cô ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột với cháu ruột và ngược lại:
Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột là anh chị em ruột của bố hoặc mẹ của cháu. Khi cháu ruột chết, anh chị em ruột của bố, mẹ thuộc hàng thừa kế thứ ba của cháu và ngược lại.
Ý nghĩa:
Quy định về na hàng thừa kế thep pháp luật đã là một bước tiến trong quá trình lập pháp ở nước ta và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người thùa kế có quan hệ thân thuộc, gần gũi với người để lại di sản. Đặc biệt, quyền sở hữu tài sản của công dân được mở rộng nhóm khách thể thuộc quyền sở hữu cá nhân bao gồm không những tư liệu sinh hoạt mà còn là tư liệu sản xuất không bị hạn chế về khối lượng và giá trị.
Hưởng di sản thừa kế theo trình tự hàng
Khi chia di sản thừa kế theo hàng thừa kế, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được nhận di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước hoặc còn nhưng từ chối quyền thừa kế hoặc bị truất quyền hưởng di sản thừa kế (nguyên tắc hàng trước được ưu tiên). Khi tất cả các hàng thừa kế đều không còn người thừa kế thì di sản thuộc về Nhà nước (Khoản 2 Điều 676 BLDS 2005).
Thừa kế thế vị
Khái niệm
Theo quy định tại Điều 635 BLDS 2005 thì người thừa kế là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, nhiều trường hợp người thừa kế không còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Để dảm bảo quyền lợi cho những người có quan hệ huyết thống trực hệ trong phạm vi gần gũi, Điều 677 BLDS 2005 quy định về thừa kế thế vị như sau:
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Ý nghĩa:
Pháp luật quy định về thừa kế thế vị nhằm bảo vệ quyền lợi của các cháu, các chắt của người để lại di sản một cách trực tiếp, do đó, quy đinh này là phù hợp với đạo lý và thực tiễn nước ta hiện nay, tránh tình trạng di sản của ông bà àm các cháu lại không được hưởng lại để cho người khác hưởng.
Bản chất pháp luật về thừa kế thế vị
Một người cha (mẹ) có bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó (cháu của ông bà) sẽ được hưởng thừa kế thế vị của ông bà nếu cha mẹ chết trước ông bà. Tất cả những người con này chỉ được hưởng một suất thừa kế mà lẽ ra cha hoặc mẹ của những người này được hưởng nếu còn sống. Tương tự như vậy, nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì (tất cả) chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Mối liên hệ giữa thừa kế thế vị và hàng thừa kế:
Quan hệ thừa kế theo hàng nói chung và quan hệ thừa kế thế vị nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ thừa kế thế vị không phải là quan hệ thừa kế theo trình tự hàng nhưng hàng thừa kế là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị trong trường hợp con của người để lại di sản là người được hưởng thừa kế theo hàng nhưng đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản.
Theo quy định hàng thừa kế thứ hai Điều 676 và thừa kế thế vị Điều 677 thì cháu thuộc diện thừa kế của ông bà nội, ông bà ngoại. Vậy khi nào cháu nội, cháu ngoại được hưởng thừa kế thế vị và khi nào được hưởng thừa kế theo hàng?
Các cháu được hưởng thừa kế thế vị khi bố mẹ các cháu đã chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản (Điều 677).
Các cháu được hưởng thừa kế theo hàng thừa kế thứ hai khi những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất không còn ai hoặc còn nhưng họ bị truất, bị tước quyền hưởng di sản thừa kế, từ chối nhận di sản thừa kế (khoản 3 Điều 676).
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
Trong những năm qua, do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, các tranh chấp dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng. Trong số đó, các tranh chấp về thừa kế chiếm một tỉ lệ đáng kể và chủ yếu xoay quanh việc chia di sản thừa kế. Đây là những tranh chấp đòi hỏi công bằng về quyền lợi nên cần phải xác định một cách thấu tình đạt lý, vì thế, đòi hỏi các cấp Tòa án có thẩm quyền phải xác định đúng những người được hưởng quyền thừa kế và theo thứ tự ưu tiên nhất định, tránh trường hợp nhầm lẫn để đảm bảo quyền lợi của đương sự.
Một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu khi giải quyết tranh chấp thừa kế là việc xác định diện và hàng thừa kế. Nếu xác định sai về những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật sẽ không giải quyết dứt điểm vụ mà còn dây dưa kéo dài. Ngoài việc xác định đúng người thừa kế theo pháp luật, Tòa án nhân dân các cấp phải kết hợp hài hòa giữa lý luận và thựa tiễn để có sự linh hoạt, mềm dẻo, nhằm ổn định đời sống, trật tự xã hội.
Những năm gần đây, hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân các cấp ngày càng được nâng cao. Thực tế xét xử của Tòa án nhân dân các cấp đã cố gắng trong việc nâng cao trình đọ, bám sát các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật của các ngành có liên quan đến việc xác định đúng đắn trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế đạt hiệu quả tốt. Tuy nhiên, còn nhiều quy định trong Bộ luật Dân sự chưa thực sự phù hợp với thực tế và chưa rõ ràng khiến các Tòa án gặp khó khăn khi áp dụng. Đôi khi do cách hiểu của những người áp dụng pháp luật nên dẫn đến những quan điểm khác nhau trong cùng một vụ án. Song cách hiểu nào cũng phải dựa trên tinh thần của điều luật và xác định bản chất của điều luật quy định như thế nào để tránh bị sai sót, nhầm lẫn.
Ví dụ:
Bản án sơ thẩm số 62/ DSST/ 2001 ngày 20/6/2001 của Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê và bản án phúc thẩm số 01/ DSPT/ 2001 ngày 05/10/2001 của Tòa án nhân dân Thành Phố Đà Nẵng tước quyền thừa kế của bà Võ Thị Xuân do hành vi giả mạo di chúc, vi phạm điểm a Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005.
Bà Võ Thị Xuân đã làm bản di chúc giả có nội dung là: Bà Bùi Thị Út (mẹ bà Xuân) để lại di chúc cho và Xuân hưởng toàn bộ di sản. Bà Xuân đã làm di chúc có dấu xác nhận giả (do cơ quan công an thẩm định) nhằm không cho ông Võ Ngọc Khôi (chồng bà Út) và những người thừa ké khác được hưởng di sản thừa kế. Với hành vi đó, 2 bản án trên quyết định và Xuân bị tước quyền hưởng di sản là hoàn toàn đúng.
Tuy nhiên, bài viết dăng trên báo tạp chí Tòa án nhân dân số 04 (tháng 2/2004) của tác giả Liên Hương_thẩm phán TAND thành phố Đà Nẵng cho rằng: “Muốn xác định bản di chúc đó có phải do bà Út lập ra, cần phải xác định chữ kí của bà Út tại bản di chúc giả. Mới chỉ căn cứ vào kết quả giám định chữ kí, con dấu, người xác nhận di chúc là giả mà khẳng định di chúc giả là không có căn cứ pháp luật”. Với quan điểm của mình, tác giả Liên Hương đã không đồng ý với quyết định của 2 bản án trên.
Vì vậy, đã có nhiều quan điểm phản hồi với cách hiểu hoàn toàn phù hợp của tác giả Phan Như Phương_TAND thành phố Đà Nẵng và Lê Minh Hiếu_TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp (dăng trên báo tạp chí TAND SỐ 13/7/2004) đã bác bỏ quan điểm trên của Liên Hương và đại đa số ý kiến đồng tình với quyết định của Tòa án là tước quyền thừa kế của ba Xuân là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, việc xác định chữ kí của và Út tại thời điểm phát sinh tranh chấp là không thể thực hiện được vì bà Út đã mất quá lâu, không để lại bút tích. Do vậy, chỉ còn phương án giám định chữ kí và con dấu xác nhận của người xác nhận di chúc. Kết quả của cơ quan Công An cho thấy chữ kí và con dấu xác nhận đều là giả và như vậy, liêu chữ kí của bà Út trong bản di chúc có thể là thật được không? Ngoài ra, tác giả Liên Hương còn đưa ra quan điểm phải xác định bà Xuân là có hành vi lập di chúc giả thì mới đủ căn cứ. Thế nhưng, trong phạm vi một vụ án dân sự thì việc xác định hành vi giả mạo là không thể thực hiện được. Nhưng bà Xuân là người trực tiếp cung cấp bản di chúc. Nếu do vô tình bà cung cấp thì tại sao bà lại khăng khăng từ chối thẩm định chữ kí và con dấu ở cấp cao hơn? Hơn nữa, hành vi của bà Xuân giả mạo di chúc nhằm không cho ông Võ Ngọc Khôi và những người khác được hưởng di sản thừa kế là trái với ý chí của bà Út. TANDTC đã có công văn số 1995 ngày 7/ 8/ 2003 trả lời khiếu nại của bà Võ Thị Xuân với nội dung 2 bản án cấp dưới xử đúng và bà Xuân phải có nghĩa vụ chấp hành.
Pháp luật nước ta từ trước chưa bao giờ quy định con dâu, con rể được thừa kế di sản của bố mẹ chồng, bố mẹ vợ. Thế nhưng, trên thực tế, nhiều vụ án lại có nguyên đơn là con dâu, con rể kiện đòi chia di sản thừa kế của bố mẹ chồng, bố mẹ vợ với lý do người chồng, người vợ của người đi kiện đã chết, nên họ là người thừa kế đương nhiên của người đó. Với cách hiểu như vậy là không đúng. Bởi lẽ, ở đây cần phân biệt tranh chấp thừa kế di sản của bố mẹ chồng, người vợ đã chết đó chứ không phải xác định người chồng, người vợ đó được hưởng thừa kế của người chồng, người vợ của mình đã chết.
Do vậy, phải hiểu rõ trong trường hợp bố mẹ chồng hoặc bố mẹ vợ để lại di sản, nếu người chồng hoặc người vợ đó đã chết thì những người con của họ mới được hưởng quyền thừa kế thế vị của ông bà nội, ông bà ngoại để lại. Do hiểu không đúng, nhiều Tòa án không đề cập đến người con của người đã chết hoặc nếu có đề cập thì lại xếp những người con đó vào vị trí là những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trong khi đó lại đưa người còn sống là vợ hoặc chồng của người chết với tư cách là nguyên đơn kiện chia di sản thừa kế của bố mẹ đẻ của người chết. Có Tòa án trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án thừa kế đã ghi lời khai của những người thừa kế, trong đo có sự từ chối hoặc nhượng quyền hưởng di sản thừa kế của mình cho một người thừa kế khác. Lẽ ra pahir đưa những người thừa kế đó tham gia tố tụng để Tòa án xem xét chấp nhận hay không chấp nhận sự tự nguyện đó. Nhưng khi thấy họ từ chối quyền lợi thừa kế thì loại họ ngay ra khỏi vụ án, không xếp họ tham gia tố tụng với tư cách nào cả. Điều này dẫn đến trường hợp tại Tòa án sơ thẩm, những người có ý kiến khước từ thừa kế, nhượng kỉ phần thừa kế cho người khác nhưng sau đó lại thay đổi ý kiến. Vì không được tham gia tố tụng nên họ cũng không được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm mà phải khiếu nại TANDTC.
Vì vậy, bài học rút ra từ thực tiễn xét xử là Tòa án cấp sơ thẩm cần lưu ý đến việc điều tra lỹ lưỡng để xác định đúng đắn hàng thừa kế ngay từ ban đầu để đưa họ vào tham gia tố tụng, cho dù có người từ chối hay thỏa thuận nào đó nhằm đảm bảo cho thủ tục tố tụng trước khi xem xét các nội dung liên quan đến việc tranh chấp về thừa kế mới có thể giải quyết vụ án đúng pháp luật.
Trên thực tế, có trường hợp 2 vợ chồng sống với nhau trong một thời gian dài nhưng vẫn không có con do người chồng không có khả năng có con. Không bàn bạc với chồng, người vợ tự ý đi thụ tinh nhân tạo và sinh ra một đứa bé. Lúc 2 vợ chồng còn sống hòa thuận thì không nói đến làm gì. Đến lúc khi ông bà nội mất mới biết trước khi chết ông bà có để lại di chúc cho đứa cháu đích tôn do ông bà cứ nhầm tưởng rằng đó là giọt máu của con trai ông bà. Lúc này, vợ chồng xích mích và dẫn đến ly hôn. Trong trường hợp này, đứa bé sẽ được xác định như thế nào? Đứa bé có phải là con chungc ủa 2 vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn tồn tại không? Nếu xet vế lý thì đứa bé đó hoàn toàn không phải là máu mủ của người chồng mà do người vợ thụ tinh nhân tạo. Việc xác định tư cách đứa trẻ rất quan trọng, bởi lẽ, nếu xet đứa trẻ là con chung của vợ chồng thì việc hưởng di sản của ông bà nội sẽ được giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng xét về mặt truyền thống thì không thể xem đứa bé là con của người chồng được. Bởi lẽ người vợ không hề bàn bạc với người chồng về việc đi thụ tinh.
Theo như vậy, ta có thể cho rằng, đứa bé đó không được coi là con chung của 2 vợ chồng. Bởi lẽ, trong trường hợp thụ tinh nhân tạo, tinh trùng được lấy từ người chồng để thụ tinh thì đó mới là con đẻ của người chồng. Cũng có đứa bé khi được thụ tinh nhân tạo không phải từ tinh trùng của người chồng nhưng được sự đồng ý thỏa thuận của cả hai vợ chồng thì đứa bé đó vẫn được xem là con chung. Tuy nhiên, trong trường hợp này, người vợ tự ý đi thụ tinh nhân tạo nên đứa bé sẽ được xem là con riêng của người vợ. Do vậy, dù di chúc của ông bà nội để lại có hợp pháp đi nữa thì đứa bé đó vẫn không được hưởng thừa kế theo di chúc. Bởi lúc lập di chúc, ông bà nội đã nhầm tưởng do không biết đứa bé đó được sinh ra theo phương pháp thụ tinh nhân tạo và không có chút máu mủ gì. Vì thế, dù di chúc có hợp pháp về hình thức nhưng nội dung có sự nhầm lẫn nên đứa bé đó không được hưởng toàn bộ di sản do ông bà để lại.
Một thực trạng nữa được đặt ra, đó là việc con chết nhưng định đoạt toàn bộ tài sản cho vợ con mà lại “quên mất” cha mẹ mình. Ví dụ:
Bà Phạm Thị Phụng và ông Đặng Đình Hiếu kết hôn năm 1964, có 2 người con chung là anh Đặng Quang Dũng và anh Đặng Xuân Hòa. Anh Hòa có vợ là chị Trần Giang Hương và có 2 người con chung là Đặng Bình Minh và Đăng Anh Khôi. Do ung thư gan nên anh Hòa đã qua đời vào tháng 7/ 2007, có để lại di chúc định đoạt toàn bộ tài sản cho chị Hương và 2 con. Tài sản chung của anh Hòa và chị Hương là 720 triệu đồng.
Qua sự kiện trên, ông Hiều và bà Phụng đồng khởi kiện đến Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội yêu cầu chia di sản của anh Hòa.
Tòa đã giải quyết: Xác định di sản của anh Hòa là : 720 triệu : 2 = 360 triệu.
Bà Phụng và ông Hiếu vẫn được hưởng 2/3 suất thừa kế (Điều 669 BLDS) là: ông Hiếu = bà Phụng = (360 triệu : 5) x 2/3 = 48 triệu đồng.
Di sản còn lại của anh Hòa được chia theo di chúc cho chị Hương và 2 con:
[360 triệu – (48 triệu x 2)] : 3 = 88 triệu đồng.
Như vậy, tình huống trên, tuy bố mẹ anh Hòa không bị anh Hòa truất quyền thừa kế một cách trực tiếp (không ghi trong di chúc) nên 2 ông bà vẫn được hưởng 2/3 suất thừa kế chia thep pháp luật. Nhưng giả sử rằng di sản của anh Hòa còn một phần chia theo pháp luật (phần của di chúc bị vô hiệu) thì ông Hiếu và bà Phụng vẫn là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất hưởng di sản của anh Hòa. Nếu hiểu 2 ông bà bị anh Hòa truất quyền hưởng di sản thì 2 ông bà chỉ được hưởng theo quy định tại Điều 6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BI T7852P L7898N di7879n th7915a k7871 theo php lu7853t.doc