Tiểu luận Một số vấn đề pháp lý trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Tại Nghị định 44 của Chính phủ ngày 29-06-1998 đã quy định mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần theo giá ưu đãi, là giá được giảm 30% so với các đối tượng khác. Nhà nước đã cho phép dành ra 20% vốn nhà nước để làm việc này. Đó là theo quy định hiện hành. Do mức đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp và số lượng lao động ở các doanh nghiệp khác nhau nên khi áp dụng Nghị định 44 thực tế có sự chênh lệch khá lớn về mức ưu đãi cho người lao động.

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề pháp lý trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước. Thứ hai, do tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả do nhiều nguyên nhân: + Do hệ thống kế hoạch hóa và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích ứng với cơ chế thị trường vì được quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống với nhiều cấp trung gian. + Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến quyền sở hữu của Nhà nước, do đó gây ra những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. + Tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường được pháp luật nhà nước củng cố đã đánh mất những động lực cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. + Các doanh nghiệp được thành lập với vốn của Nhà nước, không được phép phá sản và được che chắn bằng các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc được sử dụng nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc được ưu tiên tiếp cận với các nguồn tài chính nước ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp nhà nước không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân. Thứ ba, do thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài, đây là một nguyên nhân quan trọng thúc đẩy nước ta phải tiến hành cổ phần hóa vì các khoản nợ cấp ngày càng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo nhà nước kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc để trang trải chi phí về giá vốn được duy trì thấp để ổn định sản xuất ở một số ngành. Kết quả tài chính nghèo nàn làm tăng sự phụ thuộc của chúng vào ngân sách Nhà nước. Trên thực tế các nguồn tài chính có thể được Chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách Nhà nước ngày càng suy giảm đã làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước. Thứ tư, là do sự thay đổi nhận thức về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề đa dạng hóa sở hữu được đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước đến chỗ tôn trọng nhiều hơn vào khu vực kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Do vậy ta có thể nói, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu, là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước, tạo những động lực đáng kể để doanh nghiệp vươn lên, phát triển. Phần II Thực trạng cổ phần hóa thời gian qua I. Các giai đoạn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu ra tại Nghị định hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành từ khóa VII (11/1999) và tiếp tục được cụ thể hóa tại Nghị quyết hội nghị giữ nhiệm khóa 11(1/1994), Nghị định 10/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 17/03/1995, thông báo số 63/TB-TW ngày 04/04/1997 và đã được khẳng định rõ hơn tại Nghị quyết Đại hội VII vừa qua. Nhìn chung quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được chia làm 2 giai đoạn: 1. Giai đoạn thí điểm (1992-1995): trong giai đoạn này Chủ tịch HĐBT đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 202/CT ngày 8/06/1992, chỉ thị số 84. 2. Giai đoạn mở rộng (từ 1996 - nay): Trong giai đoạn này, cổ phần đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 07/05/1996. II. Đánh giá chung kết quả và những các hạn chế. Để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, pháp luật hiện hành đã quy định doanh nghiệp được sử dụng một phần số tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước để đào tạo, đào tạo lại nhằm giải quyết việc làm mới cho người lao động, đồng thời trợ cấp cho người lao động dôi dư. Tuy nhiên, có một bất cập nảy sinh trong thực tế, đó là các doanh nghiệp cổ phần hóa (nhưng giữ nguyên phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, chỉ phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn) không biết "bám vào đâu" để trang trải cho các khoản chi phí nói trên? Theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, có 4 hình thức để cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hình thức thứ nhất là giữ nguyên giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn, thứ hai là bán một phần giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; thứ ba là tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hóa và hình thức thứ tư là bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Trong 4 hình thức nêu trên, hình thức đầu tiên được coi là có ý nghĩa nhất trong việc huy động vốn của xã hội cho phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa, việc cổ phần hóa theo hình thức thứ nhất sẽ nâng cao chất lượng cổ phần hóa, vì theo hình thức này, vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa sẽ được nâng lên cao hơn. Do vậy, có thể thấy, những đơn vị lựa chọn cổ phần hóa theo hình thức này là những đối tượng thực sự có tư tưởng tích cực đối với công tác cổ phần hóa, thực sự có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp được chuyển đổi thành công ty cổ phần, chứ không phải cổ phần hóa để "đối phó", lấy số lượng thay vì chất lượng. Trong khi đáng lẽ phải được khuyến khích, thì một số doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức này lại phàn nàn rằng, họ rất lúng túng không biết mình sẽ được dùng nguồn vốn nào để trợ cấp cho số lao động dôi dư, hoặc đào tạo lại cán bộ. Đại diện của công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật viễn thông tâm sự với phóng viên báo Đầu tư Chứng khoán rằng, họ rất lo lắng không biết có được dùng vốn nhà nước như quy định hay không, vì chi phí cho những vấn đề phát sinh trong quá trình cổ phần hóa là rất lớn. Về phần mình, ông Nguyễn Quốc Gia, Thường trực cổ phần hóa thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông cho rằng, sẽ rất thiệt thòi cho các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức huy động thêm vốn, nếu họ không được trợ giúp của Nhà nước cho đào tạo cán bộ và trợ cấp cho lao động dôi dư. Giải thích về vấn đề trên, ông Lê Hoàng Hải, Trưởng ban cổ phần hóa thuộc Bộ Tài chính cho biết, các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức này thì chi phí cổ phần hóa sẽ được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo Thông tư số 104/1998/TT-BTC hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thì chi phí cổ phần hóa chỉ là những khoản chi cho lập phương án cổ phần hóa, xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần, thuê kiểm toán… tuyệt nhiên không có chi phí cho trợ cấp cho lao động dôi dư và đào tạo cán bộ. Thông tư 104 quy định rõ ràng những chi phí về đào tạo và đào tạo lại cán bộ, cũng như trợ cấp cho lao động dôi dư được trích từ số tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước. Đến đây, có thể hiểu, những lo ngại của các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức huy động thêm vốn là hoàn toàn có cơ sở. Khi được đề nghị giải thích về sự bất hợp lý nói trên, một quan chức của Bộ Tài chính cho rằng "đối với trường hợp này, doanh nghiệp sẽ được trích từ quỹ hỗ trợ cổ phần hóa để trang trải các chi phí". Tuy nhiên, trong cả Nghị định 44 và Thông tư 104 đều không có quy định nào cho vấn đề này và điều quan trọng hơn cả là trên thực tế, các doanh nghiệp đều không nhận được tiền. Nếu kể cả những gian truân của doanh nghiệp để có được khoản tiền từ Quỹ hỗ trợ cổ phần hóa (do chưa có hướng dẫn về quản lý, thu nộp và sử dụng Quỹ) thì rõ ràng cơ chế chính sách hỗ trợ cổ phần hóa đang bộc lộ nhiều tồn tại cần được tháo gỡ. Các doanh nghiệp mong muốn rằng, chủ trương của Chính phủ về hỗ trợ cổ phần hóa cần được thực thi một cách nghiêm túc và kịp thời, đừng để xảy ra tình trạng bất bình đẳng, gây thiệt thòi cho một số doanh nghiệp. Từ việc thay đổi tổ chức, Ban chỉ đạo cổ phần hóa sang ban ĐMDN và tổ chức lại hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, việc ban hành NĐ 44 vào giữa năm 1998 thay cho các NĐ 28 và 25 trước đây, dẫn tới bộ phận chuyên viên thường trực mất thêm thời gian nghiên cứu các thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện… để giải thích cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp phải điều chỉnh lại phương án cổ phần hóa cho phù hợp với nghị định mới. Các doanh nghiệp trong diện cổ phần hóa lại có ý chần chừ, chờ trung ương điều chỉnh một số nội dung liên quan đến chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và tiêu chuẩn người lao động nghèo của doanh nghiệp. Tiếp theo là việc chuẩn bị áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, khiến các doanh nghiệp lúng túng khi xây dựng phương án sản xuất kinh doanh trong tương lai. Sau đó là biến động tỷ giá ngoại tệ và dao động giá thị trường xuất khẩu đối với khách hàng truyền thống của doanh nghiệp, khiến họ phải thay đổi sản phẩm ngành hàng khiến cho tiến độ cổ phần hóa vẫn còn chậm chạp. Trên lĩnh vực vay vốn và hoạt động ngân hàng, mặc dù nhà nước đã ban hành NĐ 44/NĐ-CP (điều 13 khoản 3), Thông tư 7/1998/TT-NHNN quy định doanh nghiệp cổ phần tiếp tục thừa kế và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước trước đây, được vay vốn của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính và các tổ chức tín dụng theo cơ chế lãi suất như với doanh nghiệp nhà nước song các doanh nghiệp cổ phần cũng cho biết việc vay vốn trở nên khó khăn hơn so với thời kỳ chưa cổ phần hóa, bởi lẽ công ty không còn là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nữa. Theo ông Vũ Lục, thành viên Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Bộ Xây dựng, Thông tư của Ngân hàng nhà nước quy định "chỉ doanh nghiệp cổ phần hóa mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mới được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất hiện hành áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước; còn những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì chỉ được tiếp tục vay vốn trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển chính thức sang hoạt động theo Luật công ty. Sau thời gian này, nếu có nhu cầu về vốn thì doanh nghiệp được vay theo cơ chế tín dụng hiện hành…". Nhiều nhà quản lý trong các doanh nghiệp đã và đang cổ phần hóa cho rằng, quy định trên của Ngân hàng Nhà nước không chỉ đi ngược lại Nghị định của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (điều 13) mà còn triệt tiêu những động lực thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa. Đại diện một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa lo ngại trước thực tế này bởi "Chính phủ tuy là cơ quan cấp cao hơn, nhưng các ngân hàng mới là người trực tiếp cho vay nên ngân hàng quy định thế nào thì doanh nghiệp phải chịu vậy". Đại diện Ngân hàng Nhà nước trong một cuộc tiếp xúc mới đây với các chủ doanh nghiệp cổ phần hóa đã thừa nhận về sự "bất hợp lý" trong Thông tư nói trên. Tuy nhiên, quan chức này không giải thích tại sao lại có quy định này, mà chỉ hứa, "sẽ tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp để về xem xét, nghiên cứu, tìm ra một giải pháp xử lý cho phù hợp". Được biết hiện nay các ngành liên quan đang soạn thảo nghị định về bảo lãnh tiền vay, hoạt động của tổ chức tín dụng… Tuy nhiên sự ra đời của những văn bản này cũng như việc đổi mới và tổ chức lại hệ thống ngân hàng nhằm phục vụ hữu hiệu cho hoạt động doanh nghiệp hiện vô cùng bức thiết hàng ngày hàng giờ và là yếu tố mang tính quyết định. Về tiền bán cổ phần thuộc phần vốn nhà nước, điều 9 NĐ 44/1998/ NĐ-CP có quy định: Số tiền thu được từ bán cổ phần thuộc phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp sau khi trừ đi chi phí cổ phần hóa sẽ được sử dụng để: đào tạo, đào tạo lại để giải quyết việc làm cho người lao động; trợ cấp cho số lao động dôi dư; bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước cần ưu tiên củng cố và đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa theo phương án được duyệt. Nhưng trên thực tế, tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu, cổ tức, các khoản thu từ vốn góp nhà nước tại công ty cổ phần, tiền bán các tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản thanh lý, tiền thu được từ công nợ khó đòi đã bị loại trừ ra khỏi doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, tiền thu được từ thanh lý tài sản nhà nước khi doanh nghiệp nhà nước giải thể của các doanh nghiệp hạch toán độc lập là thành viên của Tổng công ty 90 đều phải nộp cho quỹ hỗ trợ và sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp ở Trung ương. Điều này đã làm cho các Tổng công ty 90 cảm thấy rằng càng cổ phần hóa thì Tổng công ty càng bị giảm vốn nhà nước, không được dùng để tái đầu tư phát triển, làm cho Tổng công ty thiếu hăng hái cổ phần hóa doanh nghiệp thành viên. Để khuyến khích doanh nghiệp sau cổ phần sớm ổn định phát triển, nhà nước đã có một loạt các ưu đãi về thuế, kinh phí hỗ trợ... Tuy nhiên, trong hệ thống chính sách ưu đãi còn nhiều mâu thuẫn làm hạn chế mặt tích cực của nhau. Ví dụ, việc Pháp lệnh chống tham nhũng quy định lãnh đạo doanh nghiệp không được mua cổ phần quá mức bình quân của cán bộ trong đơn vị. Hay việc điều phối không đồng đều nguồn hỗ trợ cho các công ty cổ phần dưới hình thức bán cổ phần ưu đãi. Các doanh nghiệp dù ít hay nhiều đối tượng ưu đãi chỉ được hưởng một tỷ lệ nhất định từ vốn nhà nước tại doanh nghiệp, gây nên sự thiệt thòi đối với những doanh nghiệp đông lao động. Khâu xác định giá trị của doanh nghiệp vẫn là khâu phức tạp và có nhiều vướng mắc. Việc xác định trị giá doanh nghiệp được quy định tại điều 11 Nghị định 44/1998 còn nhiều bất hợp lý vì phương thức xác định hiện nay mới chỉ phản ánh được giá trị vật chất hữu hình và ở mức tương đối. Còn giá trị vô hình, tác nghiệp dự báo rủi ro, đánh giá tiềm năng cho nhà đầu tư vẫn chưa được tính đến. Thêm nữa, trong khi số lượng doanh nghiệp cần được định giá ngày một nhiều nhưng công tác này lại được tập trung về một đầu mối là Ban Cổ phần hóa Bộ Tài chính nên thời gian tác nghiệp kéo dài. Để đi đến quyết định giá trị tài sản của doanh nghiệp cần phải có thẩm định của các chuyên gia, nhiều khi bất đồng với các cơ quan chuyên trách. Riêng trong vấn đề này có nhiều loại tài sản rất khó định giá như các tài sản hữu hình: bí quyết sản xuất công nghiệp, lợi thế của doanh nghiệp. Thêm nữa, hiện nay các văn bản nhà nước chưa đề ra được các chuẩn mực cụ thể về giá trị sử dụng còn lại của tài sản khi đưa vào cổ phần hóa, nên khi đưa ra xác định có nhiều con số khác nhau giữa doanh nghiệp và tổ nghiệp vụ giúp việc cho hội đồng thẩm tra. Tại Nghị định 44 của Chính phủ ngày 29-06-1998 đã quy định mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần theo giá ưu đãi, là giá được giảm 30% so với các đối tượng khác. Nhà nước đã cho phép dành ra 20% vốn nhà nước để làm việc này. Đó là theo quy định hiện hành. Do mức đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp và số lượng lao động ở các doanh nghiệp khác nhau nên khi áp dụng Nghị định 44 thực tế có sự chênh lệch khá lớn về mức ưu đãi cho người lao động. Có những doanh nghiệp ít lao động, nhất là ngành thương mại, ngành công nghiệp sản xuất bằng cơ khí hóa, tự động hóa thì lao động rất ít nhưng vốn nhà nước nhiều cho nên 20% này sử dụng không hết để chi cho người lao động mỗi một năm 10 cổ phần ưu đãi. Ngược lại có nhiều doanh nghiệp mới thành lập sau này hoặc là những doanh nghiệp có nhiều lao động thủ công nhưng vốn nhà nước rất ít. Cho nên có nơi chỉ được 3-4% ưu đãi, tạo ra tình trạng chênh lệch: cùng làm việc nhà nước, nhưng người ở doanh nghiệp này được 10 cổ phần, người ở doanh nghiệp khác được 3-4 cổ phần, không bình đẳng. Để tạo ra sự công bằng, theo đó mỗi người đều được hưởng số cổ phần ngang nhau tính trên số năm công tác thì cần phải có sự điều hòa vốn từ xí nghiệp thừa sử dụng không hết sang cho những xí nghiệp thiếu. Điều 12 NĐ 44/1998 quy định: khi xác định giá trị doanh nghiệp, chỉ doanh nghiệp nào không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán thống kê thì cơ quan quyết định xác định giá trị doanh nghiệp xem xét thuê kiểm toán độc lập xác định, quy định này hoàn toàn không đúng. Cổ phần hóa là bán một tài sản của Nhà nước cho nhiều đối tượng khác. Những người mua không có đủ điều kiện để thẩm tra công ty được cổ phần hóa. Theo Thông lệ quốc tế, kiểm toán viên chính là người đại diện cho người mua cổ phần xem xét và xác nhận thông tin và kiểm toán viên chịu trách nhiệm hoàn toàn với người mua cổ phần xem xét và xác nhận thông tin và kiểm toán viên chịu trách nhiệm hoàn toàn với người mua cổ phần. Từ ngày 13-07-1999, quyết định số 145 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài có hiệu lực thi hành. Các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội mở rộng thị trường tuy vẫn chưa được hài lòng. Lý do là vì Chính phủ quy định người nước ngoài chỉ được mua số cổ phiếu tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần hóa. Số vốn này chưa thỏa mãn khả năng tham gia của các nhà đầu tư. Danh mục các doanh nghiệp nhà nước được bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài còn chưa có nhiều ngành nghề hấp dẫn. Hiện nay mới chỉ có 4 công ty tiến hành bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là công ty đồ hộp Hạ Long, công ty may Bình Minh (Tổng công ty may Việt Nam) công ty chế biến hạt điều Long An và công ty cổ phần cơ điện lạnh. Tuy nhiên việc phát hành một loại cổ phiếu riêng cho người nước ngoài hiện gây một tâm lý không tốt, làm cho nhà đầu tư nước ngoài chưa tin tưởng vào chính sách của Việt Nam. Phần III Các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới I. Những thuận lợi và khó khăn cho việc đẩy mạnh cổ phần trong thời gian tới. 1. Các thuận lợi của việc cổ phần hóa trong giai đoạn tiếp theo. Thuận lợi đầu tiên mà chúng ta phải kể đến đó là môi trường chính trị xã hội tiếp tục được ổn định. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự nhất trí cao của Đảng cũng như của Quốc hội, của Chính phủ, ở sự tin tưởng của nhân dân đối với các cơ quan lãnh đạo nhà nước. Kinh nghiệm của Nga và các nước Đông Âu trước đây cũng như ở Indonexia, Thái Lan… vừa qua cho thấy môi trường chính trị xã hội ổn định là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của bất kỳ một chương trình kinh tế nào. Chính vì vậy mà có thể được coi là một trong những thuận lợi cơ bản nhất cho sự thành công của chương trình CPH ở nước ta. Nền kinh tế đất nước phát triển trong suốt hơn 10 năm đổi mới vừa qua đã tạo ra tiền đề vật chất cho chủ trương CPH. Điều đó thể hiện trước hết ở mức độ tích lũy trong dân cư ngày càng cao. Qua các đợt thu đổi tiền tệ cho thấy nguồn vốn bằng tiền trong dân chúng luôn chiếm từ 65-70% khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Một bằng chứng cụ thể hơn về khả năng tích lũy của dân cư đó là việc toàn dân tham gia mua công trái trong thời gian qua. Chỉ trong vòng 2 tháng mà tổng số mua công trái đã lên tới trên 4.600 tỷ đồng. Ngoài ra còn một khối lượng lớn vàng bạc, quý kim và ngoại tệ. Đây là cơ sở vật chất khách quan có ý nghĩa to lớn đối với chương trình CPH DNNN ở nước ta. Thêm vào đó, cùng với việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, khả năng thu hút các nguồn lực từ bên ngoài của nước ta ngày càng tăng lên. Đây là một thuận lợi cho quá trình CPH DNNN, đặc biệt là khi những quy định về việc bán cổ phần cho người nước ngoài được hoàn thiện hơn, hấp dẫn hơn. Ngoài ra, chúng ta còn có thuận lợi của một bước đi sau trong công việc tiếp thu kinh nghiệm CPH của các nước đi trước như Nga, các nước Đông Âu, Trung Quốc, các nước Mỹ La Tinh và các nước đang phát triển khác. Những thành quả cũng như kinh nghiệm thu được của các giai đoạn trước cũng là những thuận lợi không nhỏ cho quá trình CPH tiếp theo. Nhiều khó khăn từ giai đoạn trước đã được từng bước khắc phục. Điều đó thể hiện ở việc khung pháp lý cho CPH ngày càng được hoàn thiện, nhận thức tư tưởng của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là của các cấp lãnh đạo DN và CBCNV trong nhiều DN đã có những chuyển biến tích cực. Công việc tổ chức chỉ đạo thực hiện được tập trung hơn, hiệu quả hơn, năng lực chỉ đạo thực hiện, giải quyết các vấn đề phát sinh của cơ quan chỉ đạo cũng được nâng cao đáng kể. Những thuận lợi cơ bản nêu trên cho phép chúng ta có cơ sở để tin rằng mục tiêu CPH cho năm 1999, 2000 có khả năng sẽ thành công. Mặc dù vậy, con đường phía trước của CPH không hề suôn sẻ. Điều đó sẽ được trình bày ở phần sau đây. 2. Tiến trình cổ phần hóa vẫn gặp những trở ngại. 2.1. Vấn đề nhận thức tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế. Cuộc khảo sát thăm dò một số DN ở Hà Nội vào tháng 9/1998 cho thấy những tinh thần, nội dung mới trong chính sách CPH được các DN tiếp cận và tìm hiểu rất chậm, có trường hợp chưa hiểu rõ nội dung mới. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền phổ biến các chính sách mới cho CNVC trong DN chưa được đẩy mạnh. Điều đó rất dễ dẫn đến tâm trạng nghi ngờ, thiếu tin tưởng trong ban lãnh đạo các DN cũng như trong tập thể CNVC. Về phía người dân, cho đến thời điểm này, nhiều người vẫn còn thực sự chưa hiểu được CPH là gì và để làm gì. Những nội dung chưa thật sự hợp lý trong chính sách của Nhà nước như những quy định về ưu đãi cổ phiếu cho cán bộ, quản lý, lãnh đạo DN; Những vướng mắc xung quanh việc xác định tiêu chuẩn lao động nghèo cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự cố ý chần chừ, chờ cho các quy định trên được điều chỉnh. Do đó đã làm chậm tiến trình CPH. Mặt khác, xuất phát từ lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ mà nhiều cơ quan Trung ương, nhiều cấp bộ ngành không sẵn sàng phê chuẩn các phương án CPH của các DN lớn, làm ăn có hiệu quả. Tâm lý thích làm việc trong DNNN hơn tuy đã được khắc phục một phần song vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của CBCNV ở nhiều DN. Nhiều vị Giám đốc thiếu năng lực, lâu nay vẫn trực tiếp hoặc gián tiếp tồn tại nhờ vào sự bảo trợ của Nhà nước, vì lợi ích cá nhân đã gây không ít trở ngại cho quá trình CPH. Họ cố tình kéo dài thủ tục, gây tâm trạng lo lắng băn khoăn cho CNVC trong DN. Có thể nói cho đến nay, những tồn tại trong nhận thức tư tưởng vẫn là một trong những trở lực lớn nhất cho bánh xe CPH ở nước ta. 2.2. Những tồn tại trong chính sách của Nhà nước. 2.2.1. Chính sách đối với người lao động. a. Về vấn đề tài chính. Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã mở rộng mức ưu đãi cho người lao động tới 205 giá trị vốn nhà nước. Giá trị ưu đãi này thực hiện thông qua bán giảm giá 30% so với giá trị cổ phần thường và những cổ phần này hoàn toàn được thừa kế và chuyển nhượng. Tuy vậy lại nảy sinh vấn đề là chính sách ưu đãi mới chỉ đáp ứng được một phần nguyện vọng của người lao động: Đó là đảm bảo sự công bằng song chưa đảm bảo cho người lao động thực hiện được. Trên thực tế, người lao động ở DN đa phần là người nghèo, không có hoặc không đủ tiền để mua cổ phần nên cơ hội đã được ưu đãi là rất hạn chế. Như vậy, nếu ai đó không thuộc diện người lao động nghèo nhưng lại không có tiền mua cổ phần thì họ hoàn toàn không được hưởng những ưu đãi từ phía nhà nước. Hoặc xét trên một khía cạnh khác: Giả sử một người lao động có thâm niên 30 năm công tác tại DN, họ được mua 300 cổ phần, có giá trị 30 triệu đồng và phải trả 27 triệu đồng. Đây là một món tiền lớn mà người lao động rất khó có được. Những điều đó chưa quan trọng bằng vấn đề liệu đồng tiền bỏ ra có sinh lợi không? Họ nên sử dụng biện pháp gửi tiền tiết kiệm hoặc chuyển thành USD để giữ giá đồng tiền hay nên đầu tư mua cổ phiếu trong khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn của đa số các DNNN chỉ đạt khoảng 5%/năm mà đồng Việt Nam thì mất giá đến 9-10%? Đây cũng là một trong những vướng mắc khiến người lao động cảm thấy không đảm bảo khi đầu tư vào DNNN CPH. Đối với người lao động nghèo, nhà nước có những ưu đãi đặc biệt. Tuy nhiên số lượng cổ phần ưu đãi này rất nhỏ, chỉ chiếm có 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi cho người lao động, có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại DN. Đáng chú ý là còn nhiều khó khăn trong việc xác định tiêu chí người nghèo để giải quyết chính sách ưu đãi. Mới đây Bộ LĐTB-XH hướng dẫn lại với mức 300.000 đồng bình quân đầu người là tiêu chuẩn để xác định. Theo ông Nguyễn Minh Thông - phó trưởng ban, Ban đổi mới quản lý DNTW thì quy định này đang làm nảy sinh 2 vướng mắc: Thứ nhất, xác định như thế nào đối với thu nhập bình quân, đặc biệt khi một người trong gia đình làm trong DNNN còn người khác buôn thúng bán bưng, nghĩa là không có mức thu nhập ổn định. Thứ hai, trên thực tế mỗi vùng, mỗi địa phương có mức thu nhập khác nhau, do đó nếu quy định mức tuyệt đối sẽ là quá cao đối với vùng này nhưng lại thấp với vùng kia. Do đó mức 300.000 đồng được chấp nhận ở một số địa bàn còn một số địa bàn khác thì không. Vì thế tiêu chí này vẫn chưa được áp dụng cho năm 1999. Chính tính thiếu ổn định trong chủ trương của Nhà nước tạo ra những lỗ hổng cơ bản trong tiến trình CPH DNNN. Ngày 09/01/1999 Bộ LĐTB-XH đã ban hành Thông tư 03/1999/TT-LĐTBXH sửa tiêu chuẩn người lao động nghèo trong Thông tư số 11 theo tinh thần mở rộng hơn, giao cho Giám đốc DN, Đảng ủy, Công đoàn lựa chọn và thông qua hội nghị CBCNV trong khuôn khổ 20% tổng số cổ phần bán ưu đãi cho từng DN. Liệu đây có phải là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này không? Liệu người lao động có phải chịu thêm những phiền hà hay nạn quan liêu không? Điều này vẫn còn khiến cho người lao động lo ngại khi DN được CPH. b. Về vấn đề việc làm. Mặc dù điều 6 Nghị định 44/CP có quy định "DN tiến hành CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng hết số lao động hiện có tại DN...". Lẽ ra người lao động có thể tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35224.doc