Tiểu luận Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế

Trong khi chờ đợi Công ước La Hay được áp dụng rộng rãi trên thế giới, Québec đã

chọn cho mình một giải pháp riêng nhưng mang tính dung hòa trên cơ sở dựa theo giải

pháp của pháp luật Thụy Sĩ, nhằm đáp ứng kịp thời phần lớn các vấn đề do thực tiễn

đặt ra.

Điều 3098 khoản 1 BLDS Québec khẳng định lại khả năng áp dụng nhiều hệ thống

pháp luật đối với quan hệ thừa kế theo quan điểm truyền thống:

Thừa kế động sản được điều chỉnh bởi luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản;

thừa kế bất động sản được điều chỉnh bởi luật nơi có tài sản.

Nhưng khoản 2 Điều này có điểm mới hơn:

Tuy nhiên, một người có thể thông qua di chúc, chỉ định luật áp dụng đối với vấn đề

thừa kế của mình với điều kiện đó phải là luật của quốc gia mà mình mang quốc tịch,

hoặc luật nơi mình cư trú vào thời điểm lập di chúc hoặc vào thời điểm chết, hoặc luật

nơi có bất động sản mà mình sở hữu, nhưng luật nơi có bất động sản chỉ được áp dụng

đối với bất động sản đó.

Như vậy, việc cho phép người để lại di sản lựa chọn một hệ thống pháp luật áp dụng

thống nhất tạo điều kiện bảo đảm sự bình đẳng và khả năng dự kiến trước của giải

pháp giải quyết thừa kế. Nhưng phạm vi lựa chọn vẫn bị hạn chế một cách hợp lý:

1. Người để lại di sản chỉ được lựa chọn trong số luật của nước mà mình mang quốc

tịch hoặc luật nơi cư trú vào thời điểm chết hoặc thời điểm lập di chúc (giống với quy

định của Công ước La Hay).

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3879 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i luật áp dụng đối với chế độ tài sản giữa vợ và chồng). 2. Phần tài sản thừa kế bắt buộc Quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc theo luật nơi người để lại di sản cư trú (hoặc luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch), chẳng hạn, 2/3 theo pháp luật Việt Nam, sẽ được áp dụng đối với thừa kế động sản nhưng không được áp dụng đối với bất động sản ở Québec, bởi vì thừa kế bất động sản ở Québec sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật Québec là luật nơi có tài sản, mà luật Québec không có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc. Hơn nữa, tỷ lệ tài sản thừa kế bắt buộc theo pháp luật Pháp được áp dụng đối với bất động sản ở Pháp (giả thiết là 1/3) sẽ khác với tỷ lệ tài sản thừa kế bắt buộc được áp dụng đối với bất động sản ở Việt Nam (2/3); trong khi đó, bất động sản ở Québec không phải chịu sự điều chỉnh của bất kỳ quy định nào về phần tài sản thừa kế bắt buộc. Thực tế này có thể dẫn đến một tình huống bất bình đẳng và không được dự kiến trước, nếu như người lập di chúc tưởng rằng mọi bất động sản của mình sẽ đều chịu cùng một tỷ lệ và do đó, đã sắp xếp ưu tiên để bù đắp cho một người thừa kế nào đó. Nếu chúng ta tính giá trị của phần tài sản thừa kế bắt buộc (2/3) không chỉ trên cơ sở các bất động sản chịu sự điều chỉnh của luật nơi có tài sản và có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc (bất động sản ở Việt Nam), mà còn trên cơ sở các bất động sản khác, thì về nguyên tắc chúng ta sẽ vi phạm quy phạm xung đột về thừa kế bất động sản. 3. Quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản Trong trường hợp cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế, người thừa kế sẽ có thể từ chối nhận di sản là động sản ở nước này (giả sử việc nhận di sản này không có lợi cho họ), nhưng đồng ý nhận di sản là bất động sản nằm ở một nước khác. Bằng cách đó, người thừa kế sẽ thu lợi nhiều nhất từ việc thừa kế tài sản nằm ở 2 nước này, nhưng giải pháp này không phải lúc nào cũng công bằng đối với những người có quyền đối với di sản thừa kế. Dù sao, người thừa kế cũng sẽ chú ý sao cho hành vi của mình liên quan đến một khối tài sản thừa kế không bị coi là việc ngầm đồng ý hoặc từ chối nhận thừa kế liên quan đến các khối tài sản khác, và sẽ phải tuân thủ các quy định của luật áp dụng đối với mỗi khối tài sản đó về thể thức đồng ý hoặc từ chối nhận di sản (thời hạn, v.v.). 4. Thu hồi phần di sản đã tặng cho Trường hợp một người khi còn sống đã tặng cho con trai A của mình một bất động sản nằm ở nước X (Italia), đồng thời tặng cho con trai B một bất động sản nằm ở nước Y (Québec), thì đến khi người đó qua đời và vấn đề thừa kế được đưa ra Tòa án Québec giải quyết, người con trai A sẽ phải giao hoàn giá trị tài sản mình được tặng cho vào khối di sản chịu sự điều chỉnh của luật nước X (Italia), nhưng người con trai B sẽ không phải giao hoàn giá trị tài sản mình được tặng cho vào khối di sản X, vì tài sản tặng cho này không chịu sự điều chỉnh của luật nước X, đồng thời B cũng không nhất thiết phải giao hoàn tài sản mình được tặng cho vào khối di sản chịu sự điều chỉnh của luật nước Y (luật Québec). Kết quả sẽ là một tình trạng bất bình đẳng, trừ phi người cho tặng đã dự kiến trước như vậy. 5. Thanh toán tài sản nợ Nếu trong tư pháp quốc tế, chúng ta cũng coi những vấn đề như xác định người có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ do người để lại di sản để lại, phạm vi nghĩa vụ đối với các khoản nợ đó và phân chia nợ giữa những người có nghĩa vụ thanh toán, là những vấn đề của thừa kế giống như trong pháp luật dân sự trong nước, thì việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối có thể sẽ dẫn đến bế tắc. Như vậy, cần áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất, tức là một phương pháp tính duy nhất, đối với vấn đề phân chia nợ giữa những người thừa kế. 6. Xung đột về quyền quản lý di sản Ở các nước theo hệ thống common law, quản lý di sản là một thủ tục tư pháp theo đó Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật nước mình để chỉ định một người quản lý di sản: người quản lý di sản có quy chế là người được ủy thác di sản (trustee), có nghĩa là được chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống dân luật và cũng có thể ở Việt Nam, việc quản lý di sản đương nhiên được giao cho những người thừa kế hoặc người được chỉ định trong di chúc, do đó, những người thừa kế hoặc người được chỉ định quản lý di sản trong di chúc là những người có quyền quản lý di sản. Xung đột về quyền quản lý di sản có thể nảy sinh trong trường hợp một công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam nhưng chết ở Québec, để lại di sản bao gồm các động sản ở Québec, New York và Việt Nam. Đối với các tài sản ở Québec, luật của Việt Nam được áp dụng với lý do đó là luật nơi cư trú của người để lại di sản và Québec không chấp nhận việc dẫn chiếu ngược; vì vậy, theo luật Việt Nam, những người thừa kế sẽ có quyền quản lý di sản. Đối với các tài sản ở Québec và ở Việt Nam thì không có vấn đề gì, nhưng liên quan đến tài sản thừa kế nằm ở New York thì xung đột có thể nảy sinh giữa những người thừa kế với người quản lý di sản được Tòa án chỉ định ở New York theo pháp luật tố tụng của New York. C. GIẢI PHÁP 1. Dẫn chiếu ngược Chính trong lĩnh vực thừa kế đã xuất hiện án lệ chấp nhận cơ chế dẫn chiếu (chủ yếu là dẫn chiếu cấp độ 1, tức là dẫn chiếu từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật của nước nơi có tòa án giải quyết vụ việc). Cơ chế này đã được pháp luật Việt Nam chấp nhận tại Điều 827 BLDS Việt Nam. Trong một số trường hợp, cơ chế dẫn chiếu sẽ cho phép áp dụng một hệ thống pháp luật duy nhất đối với quan hệ thừa kế. Ví dụ trong trường hợp luật nơi cư trú của người để lại di sản được áp dụng đối với thừa kế động sản là luật của Đức, còn luật áp dụng đối với thừa kế bất động sản là luật của Việt Nam: nếu Tòa án phát hiện ra rằng trên thực tế, luật của Đức dẫn chiếu trở lại luật của Việt Nam (chẳng hạn theo hệ thuộc luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch), thì luật của Việt Nam sẽ có thể được áp dụng chung cho toàn bộ quan hệ thừa kế. Nhưng đây chỉ là giải pháp nhất thời và chưa đủ. Người lập di chúc vẫn không dự kiến trước được luật áp dụng, bởi vì nó phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố ngẫu nhiên. Giải pháp này cũng khó sử dụng đối với những người hoạt động thực tiễn về pháp luật và Tòa án thụ lý vụ việc, vì họ buộc phải hiểu biết rõ các quy phạm xung đột của pháp luật nước ngoài và buộc phải tuân theo quy định của pháp luật nước mình cho phép dẫn chiếu ngược. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Québec, về nguyên tắc, việc dẫn chiếu ngược bị cấm tại Điều 3080 BLDS Québec, nhưng trong trường hợp đặc biệt, nếu căn cứ theo Điều 3082 BLDS Québec thì Tòa án Québec vẫn có thể phải chấp nhận dẫn chiếu ngược. 2. Trích khấu tài sản bắt buộc Nhằm tránh những giải pháp giải quyết thừa kế không công bằng, bên cạnh việc viện dẫn trật tự công, một số nước còn cho phép áp dụng cơ chế trích khấu tài sản bắt buộc. Ví dụ, Điều 2 Luật ngày 14/7/1819 của Pháp quy định: "Trong trường hợp phân chia di sản thừa kế giữa những người đồng thừa kế là công dân Pháp với người đồng thừa kế là công dân nước ngoài, người đồng thừa kế là công dân Pháp được quyền trích khấu một phần tài sản nằm tại Pháp theo giá trị tương đương với phần tài sản nằm ở nước ngoài mà họ không được hưởng theo quy định của pháp luật và tập quán nước đó vì bất kỳ lý do gì." Xin lấy ví dụ như sau: một người Canađa cư trú ở Québec lập di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho người vợ mang quốc tịch Canađa mà không cho người con trai mang quốc tịch Pháp hưởng di sản. Tổng giá trị di sản để lại là 200.000$ nhưng số động sản của người này nằm ở Pháp trị giá 100.000$. Pháp luật Québec sẽ tôn trọng di chúc của người để lại di sản và sẽ giao toàn bộ phần di sản ở Québec cho người vợ, bởi vì trong pháp luật Québec không có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc, áp dụng đối với thừa kế động sản (trong điều kiện người để lại di sản không lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế). Tuy nhiên, đối với những động sản ở Pháp, người con trai có thể viện dẫn quyền trích khấu tài sản bắt buộc mà Luật năm 1819 dành cho mình và bởi vì pháp luật Pháp có quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc, nên người con trai sẽ có thể được hưởng toàn bộ phần di sản ở Pháp trị giá 100.000$. Giải pháp trên góp phần lập lại sự công bằng nhất định giữa những người thừa kế. Nhưng quan điểm phản đối thì cho rằng giải pháp này mang tính phân biệt đối xử và không tôn trọng ý chí của người để lại di sản (mà đây lại chính là mục đích của các quy định trong lĩnh vực này). Hơn nữa, nó có thể dẫn đến những biện pháp trả đũa. Chẳng hạn như trong các vụ việc khác, nếu có thể, người ta sẽ làm thế nào đó để người vợ nhận được phần thừa kế có trị giá lớn hơn trên các tài sản nằm ở Québec. Điều 3100 BLDS Québec cũng quy định: "Trong trường hợp không thể áp dụng pháp luật được dẫn chiếu để điều chỉnh quan hệ thừa kế đối với phần di sản nằm ở nước ngoài, có thể tiến hành điều chỉnh đối với các tài sản nằm ở Québec, thông qua các biện pháp chủ yếu như chia lại các suất thừa kế, phân chia lại các khoản nợ hoặc trích khấu bắt buộc trong khuôn khổ việc chia bổ sung." Như vậy, giải pháp hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện nay là áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất đối với quan hệ thừa kế và có thể cho phép người để lại di sản lựa chọn luật áp dụng. II. ÁP DỤNG MỘT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỐNG NHẤT ĐỐI VỚI QUAN HỆ THỪA KẾ GIẢI PHÁP VÀ CÁC VẤN ĐỀ NẢY SINH TỪ VIỆC CHO PHÉP NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG Trong phần trước, chúng ta đã xem xét phân tích một số khó khăn nảy sinh trực tiếp từ việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với cùng một quan hệ thừa kế, từ đó dẫn đến những giải pháp không thể dự kiến trước, có thể gây bất bình đẳng giữa những người thừa kế (quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc không được áp dụng đối với toàn bộ di sản, tập trung nhiều ưu tiên cho một người thừa kế, xung đột về quyền quản lý di sản, thu hồi một cách không công bằng phần di sản đã tặng cho, v.v.). Ngoài ra còn có một số khó khăn bắt nguồn từ sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật được áp dụng đối với quan hệ tài sản giữa vợ và chồng (tập trung nhiều ưu tiên cho một người thừa kế, quy định khác nhau giữa luật áp dụng đối với quan hệ ủy thác - trust - và quan hệ thừa kế, v.v.). Để khắc phục các vấn đề trên, hiện nay có hai xu hướng: 1. Chỉ cho phép áp dụng một hệ thống pháp luật duy nhất đối với quan hệ thừa kế; 2. Cho phép người để lại di sản được lựa chọn luật áp dụng đối với vấn đề thừa kế của mình. Tuy nhiên, hai xu hướng này lại gặp phải hai hạn chế khác. Thứ nhất, việc áp dụng thống nhất một hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế cũng không thể loại trừ được hoàn toàn hệ thuộc luật nơi có bất động sản (mặc dù luật nơi có bất động sản không thể trở thành luật áp dụng đối với toàn bộ di sản thừa kế); điều này có thể dẫn đến hậu quả trở lại tình trạng áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với một phần di sản. Thứ hai, trường hợp người lập di chúc lựa chọn luật áp dụng cũng không thể giúp tránh được các quy định có tính chất bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, như quy định về phần tài sản thừa kế bắt buộc; do đó cần có những hạn chế về phạm vi lựa chọn luật áp dụng của người để lại di sản. Quá trình cải cách phương thức giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế nhằm đồng thời đạt tới nhiều mục tiêu là bình đẳng giữa những người thừa kế hoặc người có quyền thừa kế, khả năng dự kiến được luật áp dụng, tôn trọng ý chí của người để lại di sản và bảo vệ một số người thừa kế hoặc một số tài sản thừa kế. Nhìn chung có hai hướng cải cách như sau: Thứ nhất là giải pháp của Công ước La Hay năm 1989 về xác định luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế (A): đây là giải pháp có tính chất triệt để hơn, theo đó luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế sẽ là một hệ thống pháp luật thống nhất được xác định theo tiêu chí khách quan, hoặc tiêu chí chủ quan (sự lựa chọn của người để lại di sản) nhưng với một số hạn chế như chấp nhận ngoại lệ hoặc có thể trở lại áp dụng nhiều hệ thống pháp luật. Thứ hai là giải pháp của Québec, chịu ảnh hưởng của pháp luật Thụy Sỹ và mang tính dung hòa hơn (B), bởi vì pháp luật Québec vừa cho phép áp dụng nhiều hệ thống pháp luật nếu căn cứ theo tiêu chí khách quan của quan hệ thừa kế, vừa chấp nhận áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất theo sự lựa chọn có hạn chế của người để lại di sản. A. GIẢI PHÁP TRIỆT ĐỂ ÁP DỤNG MỘT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỐNG NHẤT THEO TIÊU CHÍ KHÁCH QUAN HOẶC CHỦ QUAN (CÔNG ƯỚC LAHAY 1989) Theo Điều 3 của Công ước, luật được xác định theo tiêu chí khách quan để áp dụng đối với quan hệ thừa kế là luật nơi thường trú của người để lại di sản vào thời điểm chết, nếu nước nơi thường trú cũng là nước mà người để lại di sản có quốc tịch. Ví dụ như trường hợp một người Việt Nam thường trú ở Việt Nam vào thời điểm chết. Trong trường hợp nước nơi thường trú không trùng với nước mà người để lại di sản mang quốc tịch, thì luật áp dụng cũng là luật nơi thường trú của người để lại di sản vào thời điểm chết, nếu người để lại di sản đã thường trú tại nước đó trong thời gian 5 năm ngay trước khi chết. Ví dụ, luật Việt Nam sẽ có thể được áp dụng để giải quyết vấn đề thừa kế của một người có quốc tịch Lào nếu người đó thường trú tại Việt Nam được 5 năm cho đến khi chết. Tuy nhiên, luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch, tức là luật của Lào, cũng sẽ có thể được áp dụng trong trường hợp ngoại lệ, nếu luật nước này có quan hệ gắn bó với vấn đề thừa kế (chẳng hạn như nếu phần lớn di sản là bất động sản nằm ở Lào). Ngoài ra, nếu không sử dụng được tiêu chí nào trong các tiêu chí trên (người có quốc tịch Lào chỉ cư trú tại Việt Nam trong 3 năm), thì luật áp dụng sẽ là luật của nước mà người để lại di sản mang quốc tịch (luật của Lào), trừ trường hợp luật của nước khác có quan hệ gắn bó hơn với vấn đề thừa kế (ví dụ, bất động sản nằm ở Campuchia, thì áp dụng luật của Campuchia). Bên cạnh những nguyên tắc tương đối phức tạp nói trên, Công ước La Hay còn quy định một số ngoại lệ (Điều 6: trường hợp di chúc nêu rõ các quy định của một luật khác được áp dụng để điều chỉnh một số tài sản thừa kế, như bất động sản; Điều 15: bảo vệ một số chế độ thừa kế dành cho một số người hoặc một số tài sản; Điều 16: quy chế áp dụng đối với di sản không có người nhận thừa kế). Điểm mới thứ hai của Công ước La Hay thể hiện ở hệ thuộc electio juris, có nghĩa là cho phép người để lại di sản được lựa chọn luật áp dụng đối với toàn bộ quan hệ thừa kế (Điều 5). Với khả năng này, về nguyên tắc, luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế sẽ là một hệ thống pháp luật thống nhất, hơn nữa lại có thể dự kiến trước. Tuy nhiên, phạm vi lựa chọn bị bó hẹp trong 2 hệ thống pháp luật mà người để lại di sản thường chọn áp dụng: luật của nước mà mình mang quốc tịch hoặc luật nơi thường trú vào thời điểm lập di chúc hoặc vào thời điểm chết (căn cứ này làm cho việc dự kiến luật áp dụng trở nên không rõ). Hơn nữa, theo quy định tại Điều 6, người để lại di sản có thể lồng vào di chúc những quy định của một hoặc một số luật mà mình lựa chọn để điều chỉnh một số tài sản thừa kế nhất định (khả năng lập nhiều di chúc). Trường hợp này sẽ dẫn đến việc quay trở lại áp dụng nhiều hệ thống pháp luật, nhưng là theo ý nguyện của người để lại di sản, nếu như hệ thuộc luật nơi có bất động sản không bị loại trừ vì lý do tiện cho việc áp dụng. Ngoài ra còn có một số hạn chế khác, như hạn chế quy định tại Điều 15 (các chế độ thừa kế cụ thể, v.v.). Tuy mang nhiều ý tưởng mới, nhưng Công ước La Hay vẫn chưa đạt được thành công lớn. Đó vẫn là một văn bản phức tạp, với nhiều điều khoản ngoại lệ. Đó là kết quả thu được sau quá trình thảo luận với những ý kiến trái ngược nhau từ các nước thành viên và trong đó, một số nước vẫn còn tỏ rõ sự thận trọng trước việc cho phép người để lại di sản lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế. Những bất đồng quan điểm gay gắt này có thể chính là nguyên nhân giải thích vì sao Công ước vẫn chưa nhận được sự hưởng ứng rộng rãi mặc dù các nước đàm phán đã rất cố gắng để đi đến những giải pháp tương đối hài hòa. B. GIẢI PHÁP DỤNG HÓA CỦA PHÁP LUẬT QUEBEC: ÁP DỤNG MỘT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỐNG NHẤT THEO SỰ LỰA CHỌN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN Trong khi chờ đợi Công ước La Hay được áp dụng rộng rãi trên thế giới, Québec đã chọn cho mình một giải pháp riêng nhưng mang tính dung hòa trên cơ sở dựa theo giải pháp của pháp luật Thụy Sĩ, nhằm đáp ứng kịp thời phần lớn các vấn đề do thực tiễn đặt ra. Điều 3098 khoản 1 BLDS Québec khẳng định lại khả năng áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế theo quan điểm truyền thống: Thừa kế động sản được điều chỉnh bởi luật nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; thừa kế bất động sản được điều chỉnh bởi luật nơi có tài sản. Nhưng khoản 2 Điều này có điểm mới hơn: Tuy nhiên, một người có thể thông qua di chúc, chỉ định luật áp dụng đối với vấn đề thừa kế của mình với điều kiện đó phải là luật của quốc gia mà mình mang quốc tịch, hoặc luật nơi mình cư trú vào thời điểm lập di chúc hoặc vào thời điểm chết, hoặc luật nơi có bất động sản mà mình sở hữu, nhưng luật nơi có bất động sản chỉ được áp dụng đối với bất động sản đó. Như vậy, việc cho phép người để lại di sản lựa chọn một hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất tạo điều kiện bảo đảm sự bình đẳng và khả năng dự kiến trước của giải pháp giải quyết thừa kế. Nhưng phạm vi lựa chọn vẫn bị hạn chế một cách hợp lý: 1. Người để lại di sản chỉ được lựa chọn trong số luật của nước mà mình mang quốc tịch hoặc luật nơi cư trú vào thời điểm chết hoặc thời điểm lập di chúc (giống với quy định của Công ước La Hay). 2. Người để lại di sản có thể lựa chọn luật nơi có bất động sản, nhưng luật này chỉ được áp dụng đối với bất động sản đó. Như vậy, khả năng này có thể dẫn ngược trở lại tình huống áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế, theo chủ ý của người để lại di sản. Điều khoản này có phần tương tự như Điều 6 của Công ước La Hay. Tuy nhiên, khác với quy định tại Điều 6 của Công ước, đây không phải là trường hợp lồng vào di chúc một số quy định của luật nơi có tài sản, mà thực sự là việc lựa chọn một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, nhằm loại trừ việc áp dụng các quy định có hiệu lực áp dụng bắt buộc của hệ thống luật được dẫn chiếu theo tiêu chí khách quan. 3. Bảo vệ một số người thừa kế hoặc một số tài sản. Căn cứ theo Điều 3099 BLDS Québec, quan hệ thừa kế lại được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật được xác định theo tiêu chí khách quan. Quy định tại Điều này giúp tránh trường hợp nếu áp dụng luật do người để lại di sản lựa chọn thì sẽ không áp dụng được những quy định nhằm bảo vệ một số người hoặc một số tài sản được coi là cơ bản trong luật được xác định theo tiêu chí khách quan. Điều 3099 quy định: Việc lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế của người để lại di sản sẽ không có hiệu lực trong trường hợp việc áp dụng luật được lựa chọn làm cho người vợ hoặc một người con của người để lại di sản mất một phần lớn quyền thừa kế mà lẽ ra họ được hưởng nếu như luật đó không được chọn áp dụng. Việc lựa chọn luật áp dụng của người để lại di sản cũng không có hiệu lực trong trường hợp việc áp dụng luật đó gây phương hại đến các chế độ thừa kế áp dụng đối với một số tài sản theo quy định pháp luật của nước nơi có tài sản vì lý do các tài sản đó phục vụ lợi ích kinh tế, gia đình hoặc xã hội. C. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA GIẢI PHÁP CHO PHÉP NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN LỰA CHỌN MỘT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỐNG NHẤT ĐỂ ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ THỪA KẾ Giải pháp cho phép người để lại di sản lựa chọn một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh quan hệ thừa kế, chẳng hạn như luật nơi cư trú của người để lại di sản vào thời điểm lập di chúc, có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, sẽ không xảy ra tình trạng bảo vệ quá chặt hoặc không bảo vệ quyền lợi của một người thừa kế nào đó như trong trường hợp áp dụng nhiều hệ thống pháp luật theo hệ thuộc luật nơi có tài sản; ở đây, nếu người thừa kế nào được ưu tiên thì cũng chỉ được hưởng một phần ưu tiên duy nhất tính trên tổng giá trị di sản. Thứ hai, nếu áp dụng một hệ thống pháp luật thống nhất theo lựa chọn của người để lại di sản đối với vấn đề phần tài sản thừa kế bắt buộc (trừ trường hợp áp dụng Điều 3099 BLDS Québec), thì kết quả tính toán sẽ chính xác hơn, bởi vì phần tài sản thừa kế bắt buộc được tính trên tổng giá trị của toàn bộ di sản và sẽ được tuân thủ một cách toàn diện. Thứ ba, nếu áp dụng một quy định thống nhất về quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản, thì chắc chắn là người thừa kế sẽ không được linh hoạt như trước, nhưng giải pháp này sẽ công bằng hơn đối với những người có quyền đối với di sản thừa kế. Thứ tư, việc áp dụng một quy định thống nhất về việc thu hồi phần di sản đã tặng cho cũng sẽ bảo đảm công bằng hơn giữa những người có quyền thừa kế. Thứ năm, giải pháp này cũng sẽ giúp đơn giản hóa rất nhiều việc tính toán để phân chia nợ giữa những người có quyền thừa kế, bởi vì sẽ chỉ có một khối tài sản nợ duy nhất. Vấn đề công bằng cũng sẽ được bảo đảm hơn bởi vì luật được chọn áp dụng cũng sẽ điều chỉnh việc xác định tài sản thừa kế để xử lý thanh toán các khoản nợ do thừa kế. Thứ sáu, giải pháp này cũng góp phần làm giảm xung đột về quyền quản lý di sản, mặc dù trên thực tế, xung đột vẫn có thể xảy ra nếu tài sản thừa kế nằm ở một nước theo hệ thống common law, bởi vì theo quy định pháp luật của các nước này, vấn đề quản lý di sản vẫn là một vấn đề thuộc lĩnh vực tố tụng, do Tòa án phụ trách; khi đó sẽ còn phải áp dụng cả pháp luật của nước sở tại. Cuối cùng, giải pháp cho phép người để lại di sản chọn một hệ thống pháp luật để áp dụng thống nhất đối với cả vấn đề thừa kế, chế độ tài sản giữa vợ và chồng, hợp đồng trust lẫn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, v.v., sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề thừa kế được dễ dàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, giải pháp này vẫn có một số bất cập liên quan đến phạm vi lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế. Ví dụ, liệu người để lại di sản có thể lựa chọn áp dụng nhiều hệ thống pháp luật hay không? Giả sử câu trả lời là có, thì chúng ta sẽ quay trở lại trường hợp một quan hệ thừa kế được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật, với tất cả những vấn đề khó khăn của nó. Liệu chúng ta có thể công nhận quyền lập nhiều di chúc hay không? Kỹ thuật pháp lý tương đối phổ biến ở các nước theo hệ thống common law này sẽ tạo điều kiện để chúng ta chấp nhận áp dụng luật nơi có bất động sản như một thực tế không thể tránh khỏi, ít nhất là đối với một số vấn đề về chuyển giao tài sản thừa kế. Việc lập nhiều di chúc cũng giúp tránh được trường hợp trong đó di chúc duy nhất không có hiệu lực pháp luật toàn bộ, và sẽ giảm được chi phí dịch thuật. Nhưng việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật đối với quan hệ thừa kế như vậy sẽ khiến cho việc giải quyết trên thực tế trở nên phức tạp do phải xử lý hài hòa giữa nhiều bản di chúc đó. Trong trường hợp sửa đổi bổ sung di chúc thì phải xem xét lại tất cả các bản di chúc và tiến hành kiểm tra, xác minh trước nhiều cơ quan có thẩm quyền ở nhiều nước; như vậy chi phí sẽ tăng. Liệu có thể đưa vào di chúc một điều khoản theo đó áp dụng cố định các quy định pháp luật hiện hành vào thời điểm lập di chúc? Hiệu lực của điều khoản này có lẽ phụ thuộc vào luật được chọn áp dụng, mặc dù nếu áp dụng pháp luật của Tòa án thì có thể có lợi. Cần giải quyết như thế nào nếu theo quy định của luật được chọn áp dụng thì di chúc bị vô hiệu? Về nguyên tắc, trong trường hợp này (di chúc bị vô hiệu), vẫn phải tuân thủ quy định của luật được lựa chọn áp dụng và khi di chúc bị vô hiệu thì việc thừa kế đó sẽ được giải quyết theo luật được dẫn chiếu theo tiêu chí khách quan. Ngoài những nội dung trao đổi trên, tôi xin trình bày một số vấn đề liên quan đến di chúc có yếu tố nước ngoài và vấn đề chứng cứ trong lĩnh vực thừa kế. III. THỪA KẾ THEO DI CHÚC: XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN HIỆU LỰC VỀ MẶT HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC Xung đột pháp luật liên quan đến hiệu lực về mặt hình thức của di chúc có vẻ ít gặp trong thực tiễn và nhìn chung, việc giải quyết cũng tương đối dễ dàng nếu tư pháp quốc tế có một quy phạm xung đột đưa ra nhiều khả năng lựa chọn như quy định tại Điều 3109 BLDS Québec (dựa theo Công ước La Hay năm 1961 về xung đột pháp luật về hình thức di chúc): 3109. Hình thức của hành vi pháp lý được điều chỉnh bởi luật nơi xác lập hành vi đó. Tuy nhiên, hành vi vẫn có hiệu lực nếu được xác lập theo hình thức quy định trong luật được dẫn chiếu để điều chỉnh về nội dung của hành vi, hoặc luật nơi có tài sản là đối tượng của hành vi vào thời điểm xác lập hành vi, hoặc luật nơi cư trú của một trong các bên vào thời điểm xác lập hành vi. Ngoài ra, di chúc có thể được lập theo hình thức quy định trong luật nơi cư trú hoặc luật của nước mà người lập di chúc mang quốc tịch vào thời điểm lập di chúc hoặc vào thời điểm chết. Tuy nhiên, còn một vấn đề liên quan đến hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư pháp quốc tế.doc
Tài liệu liên quan