MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. CÁC KHÁI NIỆM 2
1. Khái niệm về đói nghèo 2
2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2
II. NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ 3
1. Nội dung 3
2. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta 6
III. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM 7
1. Thực trạng 8
2. Giải pháp 10
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở nước ta 11
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VỚI CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 12
V. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 14
1. Một số chính sách về xoá đói giảm nghèo 14
2. Một số chính sách về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam 14
KẾT LUẬN 15
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4862 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i giảm nghèo ở nước ta hiện nay” nhằm làm rõ hơn về công cuộc xoá đói giảm nghèo cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta cũng như những cơ hội và thách thức trong thời kỳ mở cửa và hội nhập.
Tuy nhiên do kiến thức còn hạn hẹp nên trong bài này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để bài viết này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo đã giúp em hoàn thành bài viết này.
NỘI DUNG
I. CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm về đói nghèo
- Khái niệm về đói nghèo của thế giới.
Theo quan điểm chung thì những người có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội thì coi là loại nghèo khổ.
Tại hội nghị về xoá đói giảm nghèo ở khu vực Châu á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 ở Băng Cốc đã đưa ra khái niệm nghèo “Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu câu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của một địa phương”.
- Khái niệm nghèo đói ở Việt Nam.
Việt Nam nói chung vẫn là nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, đầu những năm 90 chỉ đạt khoảng 200 USD / người/ năm, đến đầu năm 1997 mới đạt 320 USD / người/ năm. Chính vì vậy qua nhiều khảo sát , nghiên cứu các nhà quản lý ở các bộ, nghành đã đi đến thống nhất cần có khái niệm riêng, chuẩn mực riêng cho nghèo và đói.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Cơ cấu kinh tế là tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về vật chất và số lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là một phạn trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội. Cơ cấu kinh tế còn là phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.
- Cơ cấu ngành kinh tế: là tổng thể các nghành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ của các nhóm nghành của nền kinh tế quốc dân. Khi phân tích cơ cấu nghành của một quốc gia người ta thường phân tích thành ba nhóm nghành chính:
+ Nhóm nghành nông nghiệp: Bao gồm các nghành nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Nhóm nghành công nghiệp: Bao gồm các nghành công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm nghành dịch vụ: Bao gồm thương mại, dịch vụ.
- Cơ cấu lãnh thổ: Là nghành cơ cấu kinh tế thực chất là hai mặt của một thực thể thống nhất và là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu nghành và thống nhất trong vùng kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả cuả các nghành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
II. NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1. Nội dung
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX xác định nhiệm vụ đưa đất nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2010. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn bởi đến nay nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao, trên cơ sở đường lối rõ ràng và có luận cứ khoa học. Trong tổng thể các vấn đề cần giải quyết, việc xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ vị trí quan trọng. Khi đề cập đến xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta có mấy vấn đề cần xem xét:
Trước hết cơ cấu kinh tế được xác định là cơ cấu linh hoạt, có khả năng thích nghi nhanh với sự biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế, trước hết và chủ yếu là sự tiến bộ khoa học và công nghệ, chi phí ( tài chính và thời gian) cho điều chỉnh thấp.
Thứ hai đánh giá lại một cách toàn diện và sâu sắc những lợi thế mà lâu nay nhìn nhận được một cách lạc quan. Tài nguyên và nhân lực của nước ta chỉ tạo nên lợi thế có tính chất ngắn hạn của một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp kém.
Thứ ba định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành chủ yếu phải xuất phát từ cầu thi trường, trên cơ sở khai thác có hiệu quả khả năng chứ không thể xuất phát thuần tuý từ khả năng.
Thứ tư huy động, phân bổ và quản lý sử dụng vốn đầu tư vẫn được coi là điều kiện trọng yếu cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển ở nước ta.
Thứ năm đánh giá và phân laọi khả năng cạnh tranh và dự báo triển vọng cạnh tranh của các nghành kinh tế để có giải pháp xử lý hợp lý.
Theo đó có thể phân các nghành kinh tế thành các nhóm sau:
a. Nhóm thứ nhất: Bao gồm các nghành tạo được ưu thế nổi trội không cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ được ưu tiên phát triển với nhịp độ cao. Nhóm nghành này bao gồm hai phân nhóm lớn:
- Các nghành truyền thống đã và sẽ tiếp tục xác lập được vị thế trên thị trường.
Những nghành còn lại bao gồm:
+ Các nghành phát triển trên cơ sở lợi thế về tài nguyên như : Nông nghiệp, ngư nghiệp và khai thác
+ Các nghành phát triển trên cơ sở lợi thế về lao động như may mặc, giày dép, lắp ráp cơ khí, điện tử…
- Những nghành mới phát triển đại diện cho trình độ khoa học công nghệ cao( điện tử, tin học, công nghệ thông tin, cơ - điện tử, vật liệu mới, các chế phẩm sinh học cao cấp). Những nghành này dần chiếm vị trí cao, quan trọng trong cơ cấu kinh tế.
b. Nhóm thứ hai bao gồm các nghành có thể triển vọng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường cũng cần được ưu tiên thoả đáng nhằm biến khả năng ấy thành hiện thực. Nhóm này có diện khá rộng, bao gồm hai loại:
- Các nhóm nghành nước ta có lợi thế, nhưng hiện nay phát triển theo kiểu truyền thống (tự nhiên), mức độ đầu tư khoa học và công nghệ còn thấp (trình độ sản xuất thấp) nên sản phẩm không có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước như nông sản thực phẩm nhiệt đới (chè, rau, hoa quả, hồ tiêu, gia súc, gia cầm….), một số loại cây công nghiệp (cao su, dâu tằm…), cây công nghiệp chế biến lương thực.
- Các nhóm nghành thị trường trong nước có nhu cầu, đã có cơ sở vật chất nhất định nhưng trình độ sản xuất lại lạc hậu, việc đầu tư khoa học và công nghệ chưa thoả đáng nên chưa đủ khả năng chiểm lĩnh thị trường trong nước và thâm nhập thị trường nước ngoài. Có thể liệt kê một số nhóm nghành điển hình gồm: sản xuất vật liệu xây dựng thông thường và cao cấp, cơ khí sản xuất cho công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, phụ tùng cho công nghiệp nặng và kim khí tiêu dùng, một số nghành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất phân bón và chế phẩm phục vụ trồng trọt, chăn nuôi.
Nhóm nghành sẽ được phát triển mạnh hơn nhưng trong thời gian đầu chưa thể có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn công nghiệp hoá chất gắn liền với công nghiệp hoá dầu, luyện kim đen và luyện kim màu, các hoạt động và dịch vụ của kinh tế thị trường như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…
c. Nhóm nghành thứ ba là các nghành trên thị trường không vấp phải sự cạnh tranh gay gắt do đặc thù của sản xuất hoặc tiêu dùng, dung lượng thị trường nhỏ.
d. Nhóm thứ tư bao gồm các nghành có khả năng cạnh tranh thấp do năng lực sản xuất hạn chế, khả năng không thể theo kịp sự biến đổi của nhu cầu, việc đầu tư không mang lại hiệu quả mong muốn. Cân tính toán đầy đủ sự tác động của toàn cầu hoá và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để định hướng đầu tư theo yêu cầu phát huy lợi thế và đảm bảo hiệu quả đầu tư.
2. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hương hội nhập là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cần khẳng định ngay rằng thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu nghành. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước( thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ…) có tác động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển của Nhà Nước trong từng thời kì có tính đến các yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Các nguồn lực và lợi thế của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một cách bền vững và có hiệu quả. Tài nguyên thiên nhiên(khoáng sản, hải sản, lâm sản, nguồn nước …) và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết, bờ biển…) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ, ngư nghiệp, nông nghiệp … Tuy nhiên, việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác các tàI nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định…Như vậy, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.
Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Sự tác động của các nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới…là cơ sở quan trọng để phát triển các nghành công nghiệp, kỹ thuật cao.
Thứ hai quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các nghành nghề công nghiệp và các nghành phục vụ tiêu dùng.
Thứ ba sự phát triển của các nghành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các nghành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán truyền thống, phong tucj của một địa phương, một cộng đồng người. Thêm vào đó vị trí địa lý kinh tế của đất nước cũng là một yếu tố cần được xem xét khi hình thành cũng như định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa và hội nhập giai đoạn hiện nay.
Sự ổn định của thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rõ ràng và mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ…. Là một lợi thế quan trọng của nước ta trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho dù la chuyển dịch theo hướng nào) thì Nhà nước đóng vai trò quyết định.
Thứ nhất Định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư theo nghành và theo vùng lãnh thổ.
Thứ hai bằng hệ thống pháp luật, chính sách …. Nhà nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư( cả trong và ngoàI nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã định. Cùng với đó kết quả làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất nhập khẩu là nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ trong thời kỳ mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và trên Thế giới.
III. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng
Nghèo đói là một trong những thách thức lớn của nhân loại hiện nay. Vào những năm cuối của thế kỷ XX, trên thế giới vẫn còn khoảng 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đây là một trở ngại lớn mà không một quốc gia nào không quan tâm và tìm cách giải quyết trong quá trình phát triển của mình. Vào những năm gần đây, công cuộc đổi mới của đất nước ta đã và đang đem lại những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, xã hội, trong nhiều năm liên tục chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế. Nền kinh tế thị trường một mặt đem lại tính năng động sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh cũng như nhiều lĩnh vực khác trong đời sống kinh tế, xã hội, mặt khác cũng bộc lộ nhiều hạn chế chẳng hạn như sự phân hoá giàu nghèo ngày càng trở nên rõ nét. Do vậy xoá đói giảm nghèo trong những năm gần đây luôn được Đảng và Nhà nước coi là vấn đề bức xúc, gay gắt có ý nghĩa cơ bản, lâu dài nhất là đối với người dân ở nông thôn. Đề giải quyết vấn đề đói nghèo không thể bị động và thụ động bằng các biện pháp nhất thời hoặc thuần tuý cứu trợ. Về mặt cơ bản phương hướng xoá đói giảm nghèo phải tìm they ở sự nỗ lực sản xuất của các hộ dân cư, sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã hội. Phát triển sản xuất là một gốc rễ của xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Các nhà xã hội học gần đây tiến hành khảo sát 118 hộ gia đình tại huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ tháng 9/2000 cho they một số vấn đề sau: Trong địa bàn khảo sát, tỷ lệ hộ nghèo tuyệt đối là 21,7% với thu nhập đầu người theo tháng là 35.860 đồng, tỷ lệ hộ nghèo tương đối là 42,2% với thu nhập bình quân đâu người theo tháng là 101.225 đồng, còn nhóm không nghèo chiếm 36,1% với thu nhập bình quân đầu người theo tháng là 312.736 đồng/tháng. Như vậy sự phân nhóm mức sống giữa nhóm không nghèo và nhóm nghèo tuyệt đối là 8,72 lần, giữa nhóm nghèo tương đối và tuyệt đối xấp xỉ 3 lần. Cụ thể ở từng địa bàn như sau: Khoảng cách giữa các nhóm không nghèo là nhóm nghèo ở thị trấn là 10,15 lần, ở các xã là 7,6 – 8,44 lần. Như vậy, mức độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng đã có tác động đến mức sống của các hộ gia đình nói chung. Về quy mô gia đình: Nhóm hộ nghèo tuyệt đối trung bình có 4,57 nhân khẩu với số lao động chính trung bình là 2,19 tương tự với nhóm hộ nghèo tương đối là 4,2 và 2,13 và nhóm hộ không nghèo là 3,64 và 1,93. Vậy đông nhân khẩu là một trong những nhân tố dẫn đến đói nghèo.
Về việc làm chính của hộ gia đình: Những hộ nghèo thường là những hộ thuần nông. Những hộ có điều kiện kinh tế ở nông thôn lại tập trung vào những hộ có người đi làm Nhà nước(46,4%). Trước thực trạng nghèo khổ như vậy, các hộ nghèo đã nhận thức như thế nào về tình trạng nghèo khổ của mình?. Những nguyên nhân nghèo khổ có thể chia thành 3 nhóm : Nhóm phổ biến nhất là thiếu đất canh tác( 55,5%), rủi ro(50%), thiếu vốn(47,3%), đông con(32,9%). Nhóm không biết cách làm ăn(20,7%), không có nghề(19%), thiếu lao động(5,6%), do ma tuý(5,4%). Một vấn đề luôn đặt ra với các hộ nghèo là thiếu vốn. Tuy nhiên thực tế chỉ có 1/2 số hộ nghèo có vay vốn. Vây tại sao hộ nghèo lại không vay vốn?.
Khi tìm hiểu nguyên nhân thì được biết là do không đủ điều kiện vay, sợ lãi suất cao, lo không trả được nợ và thời hạn vay ngắn.
Như vậy thiếu vốn là vấn đề cơ bản đối với những hộ nghèo, nhưng chỉ có một bộ phận nhận thức được điều đó. Hơn nữa mặc dù đã nhận thức được nguyên nhân nghèo nhưng chỉ có 1/2 số hộ dám vay vốn. Do đó vấn đề đặt ra với hộ nghèo không phải chỉ là vấn đề thiếu vốn mà cả về vấn đề trình độ.
Nhờ thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng GDP tăng 7,8%, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 423 USD năm 2001 lên 722 USD năm 2006( tăng gần 70,7%). Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2%, thất nghiệp cuối năm 2006 còn khoảng 5%. Cùng với đó các chính sách và giải pháp của Chính Phủ đã khiến kinh tế khu vực có bước tăng trưởng mạnh mẽ. Từ năm 2002 – 2006 có gần 170.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.Trong nghiệm kỳ đã sắp xếp lại 3815 doanh nghiệp Nhà nước bằng 71% số doanh nghiệp Nhà nước có vào đầu năm 2002, trong đó thực hiện cổ phần hoá 2440 doanh nghiệp Nhà nước. Môi trường đầu tư cũng được cải thiện, từ năm 2001 – 2005, tổng vốn FDI đăng ký đạt gần 21 tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 14 tỷ USD vượt 30% so với chỉ tiêu đề ra. Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.
2. Giải pháp
Trước hết phải tập trung nguồn lực và sức lực phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, bền vững với cơ cấu hợp lí. Chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đặc biệt giống cây mới có năng suất, chất lượng cao. Giữ vững và tăng diện tích trồng lúa một cách hợp lý, đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia và dành một phần cho xuất khẩu. Diện tích hoa màu, ngô, khoai, sắn, đậu đỗ…. còn tiềm năng lớn để phát triển, đi đôi với diện tích phải hướng vào thâm canh, tăng sản lượng và chất lượng hàng hoá đáp ứng yêu cầu chăn nuôi và xuất khẩu.. Cần quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp trên cơ sở quy hoạch tổng thể, dự báo thị trường giá cả, yêu cầu tiêu thụ thị trường trong nước và nước ngoài để phát triển bền vững, lập quỹ hỗ trợ bình ổn giá nông sản, khắc phục cho được tính tự phát, khi đến mùa được giá thì đua nhau nuôi trồng, khi giá hạ thì chặt phá gây tốn kém sức người, sức của của nhân dân.
Nghành thuỷ sản nước ta có khả năng phát triển gấp đôi, gấp ba so với hiện nay. Đây cũng là nghành kinh tế trọng yếu thu hút nhiều lao động. Có chương trình, kế hoạch phát triển đồng bộ, bền vững cả nuôi trồng, đánh bắt gắn với chế biến, nâng cao chất lượng hàng hoá thuỷ sản. Đi đôi với phát triển kinh tế biển, chúng ta còn có nhiều tiềm năng về rừng cùng với hơn 133 ngàn trang trại, mô hình nông lâm kết hợp, gắn sản xuất với chế biến, xuất khẩu vừa giải quyết vấn đề kinh tế vừa bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện tốt việc phân vùng – rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh tế. Mặt khác để nông nghiệp nước ta phát triển bền vững đòi hỏi phải đầu tư phát triển nền nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Trước hết coi trọng chế biến lương thực, thực phẩm. Quan tâm sản xuất máy móc, công cụ cầm tay, máy xay xát cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Một yếu tố hết sức quan trọng nữa là tăng cường sự đầu tư của Nhà nước đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư của địa phương và nhân dân để nhanh chóng tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông thôn phát triển trước hết là cơ sở hạ tầng: đường giao thông, trường học, trạm xá, chợ, trung tâm cụm xã đặc biệt là hệ thống hồ đập, kênh mương thuỷ lợi đảm bảo nguồn nước vững chắc cho sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp và sinh hoạt đời sống nhân dân. Vấn đề quan trọng và có tính quyết định là vấn đề cán bộ cơ sở, đặc biệt là các xã miền núi, hải đảo đang hết sức khó khăn. Các tỉnh, thành phố cần tăng cường cán bộ có trình độ năng lực và kinh nghiệm về giúp đỡ các xã thuộc vùng sâu, vùng xa. Đồng thời có kế hoạch đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ tại chỗ.
Ngoài những giải pháp cơ bản trên, cần có chương trình, kế hoạch phát triển các làng nghề và nghề truyền thống để thu hút lao động nông nhàn ở khu vực nông thôn. Đồng thời chủ động chuẩn bị nguồn lực tham gia thị trường xuất khẩu lao động đang ngày càng mở rộng, có kế hoạch đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn để đáp ứng kịp thời khi có nhu cầu. Thực hiện hướng này, hàng năm từ khu vực nông thôn có thể rút ra hàng triệu lao động vừa góp phần giải quyết vấn đề thiếu việc làm ở khu vực nông thôn vừa góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nước ta.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở nước ta
Nguồn lực hạn chế là một trong những yếu tố cơ bản của đói nghèo. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Thêm vào đó thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường.. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới….. Bên cạnh đó việc thiếu các thông tin đặc biệt các thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường đã làm cho người nghèo không nắm bắt được thông tin cần thiết tạo thuận lợi cho họ trong việc xoá đói giảm nghèo. Trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định cũng là một trong những yếu tố của đói nghèo. Điều đó cũng ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số ngươi nghèo: tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiểm đến 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm đến 39%, trung học cơ sở chiếm 37%. Trình độ học vấn thấp đã gây ra rất nhiều khó khăn cho họ trong việc vươn lên đói nghèo. 80% số người nghèo làm cho các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Thêm vào đó họ gần như không có khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các nghành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
Ngoài hai yếu tố trên, yếu tố về nhân khẩu học cũng ảnh hưởng đến đói nghèo.
Với những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của nước ta. Mặt khác nước ta còn phải hứng chịu những nguyên nhân do thiên tai, mất mùa làm kiệt quệ thu nhập của người nghèo. Bệnh tật và sức khoẻ yếu cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Với những người có ý thức thoát khỏi đói nghèo thì lại gặp những rủi ro trong kinh doanh, sản xuất, chăn nuôi….
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VỚI CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ưu tiên phát triển một số nghành mũi nhọn. Đối với nước ta hiện nay, thách thức chủ yếu ở trạng tháI xuất phát thấp, tiềm lực vật chất đặc biệt là vốn và công nghệ còn quá mỏng. Yếu tố vật chất quy định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là vốn và cơ cấu lành nghề. Xét về mặt nguồn vốn: Vốn có thể tự có từ các nguồn khác nhau như ngân sách Chính phủ, nguồn ODA, PDI… nhưng vốn lớn nhất đối với tất cả các nước là nguồn vốn từ trong dân. Nhưng nước ta lại là một nước nghèo, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn như vậy việc huy động vốn từ người dân gặp nhiều khó khăn. Xét về nguồn lực: Đa số các hộ gia đình nghèo thường đông con nên không đủ điều kiện cho con cái đi học do vậy khả năng nắm bắt những công nghệ, khoa học, kỹ thuật rất yếu. Từ đó họ không đủ khả năng để tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tóm lại nghèo đói là một khó khăn, một cản trở lớn của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự tác động ngược lại của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo: Để xem xét rõ hơn ta xét ở hai khu vực nông thôn và thành thị. Tại khu vực nông thôn, Đảng và Nhà nước đã có chú trọng phát triển những nghành mũi nhọn trên tất cả nông, lâm, ngư nghiệp. Tuỳ thuộc vào đặc điểm địa lý, khí hậu của từng vùng ưu tiên phát triển các nghành khác nhau. Về lâm nghiệp, nước ta vốn đã có diện tích rừng phong phú song do sự quản lý lỏng lẻo diện tích rừng đã ngày một cạn kiệt do vậy phải có chính sách phát triển rừng. Về ngư nghiệp, với diện tích bờ biển dài và rộng là điều kiện tốt cho nghành ngư nghiệp trở thành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Tại một số khu vực do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, đời sống của nhân dân được cải thiện góp phần rất lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước.
Tại khu vực thành thị, đã hình thành một số nghành kinh tế mũi nhọn như tin học, điện tử, viễn thông, dệt may…. Nhiều khu vực công nghiệp đã tận dụng tối ưu thế mạnh của vùng, của khu vực, khai thác tốt tài nguyên thiên nhiên và tạo ra nhiều công ăn việc làm góp phần tăng thu nhập xoá đói giảm nghèo.
Nói chung quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tác động tích cực rất lớn đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. Song công cuộc xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ mà quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gách vác. Giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công cuộc xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, chúng cùng đều một mục tiêu đưa đất nước ta phát triển để sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
V. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Một số chính sách về xoá đói giảm nghèo
- Chính sách hỗ trợ về y tế.
- Chính sách hỗ trợ về giáo dục.
- Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Chính sách hỗ trợ an ninh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế.
- Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở.
- Chính sách hỗ trợ tư liệu, công cụ và đất sản xuất cho người nghèo.
- Các chính sách khác: Chính sách chuyển giao công nghệ, dân số kế hoạch hoá gia đình, phát huy sức mạnh của Đảng và Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể.
- Chính sách hỗ trợ đối với người nghèo vay vốn.
2. Một số chính sách về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Các khuyển khích về thuế quan
Các khuyển khích tài chính.
Việc cung cấp tín dụng.
Vấn đề tỷ gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (217).doc