MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
I. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quá độ ở Việt Nam
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
2. Kinh tế Nhà nước là xu hướng mang tính quy luật của nền kinh tế nước ta đi từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn
II. Một số vấn đề về vai trò thực tiễn và lý luận trong quá trình thực hiện kinh tế Nhà nước.
1. Lý luận
a. Điều kiện và hoàn cảnh
b. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế Nhà nước
c. Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
d. Yêu cầu nảy sinh của kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ
2. Thực tiễn
a. Vai trò chỉ đạo kinh tế Nhà nước
b. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá chỉ đạo của thực tiễn kinh tế Nhà nước
III. ý kiến cá nhân
1. Giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Những vấn đề cần lưu ý trong phát triển kinh tế Nhà nước
c. Kết luận
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề về kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quá độ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế Nhà nước trong giai đoạn hiện nay:
2. Những vấn đề cần lưu ý trong phát triển kinh tế Nhà nước .
A. Phần mở đầu.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và phát triển xã hội loài ngươì và bất cứ ở giai đoạn nào, bất kỳ đất nước nào không loại trừ các nước giàu mạnh về kinh tế. Suy đến cùng đều bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế rất sôi động. Các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển trong đó con người là trung tâm. Muốn vậy các nước không còn con đường nào khác là phải đổi mới nền kinh tế. Do vậy vấn đề kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ là vấn đề chung mang tính chất toàn quốc khiến mọi ngươì đều phải quan tâm nghiên cứu nó.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam còn nghèo (thuộc nhóm 3) thu nhập quốc dân tính theo đầu người hiện nay là rất thấp. Sau nhiều thập kỉ chiến tranh nền kinh tế phát triển thấp. Song song với sự phát triển rất thấp là một sự quản lý yếu kém , cơ sở hạ tầng trong tình trạng thấp kém và nghèo nàn.
Năm 1992 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,3% trong khi lạm phát được giảm xuống mức kiểm soát được là 15%. Xuất khẩu tăng nhanh kể từ năm 1988-1993 mức tăng trưởng trung bình là 30%, tính chung cả 4 năm (1991-1994) tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt tốc độ tăng bình quân là 7,2%, sản lượng nông nghiệp đạt mức cao chưa từng có (đứng thứ hai trên thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu). Có được những thành công về nền kinh tế vừa qua của cả nước là kết quả của một đường lối cải cách kinh tế rộng lớn do Đại hội Đảng VI (1986) đề ra và Đại hội Đảng lần VII (1991) phát triển và cụ thể hoá với sự quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đưa nền kinh tế của Việt Nam theo hướng phát triển giàu mạnh tiến tới một xã hội công bằng văn minh.
Để góp phần nghiên cứu về nền kinh tế quá độ ở Việt Nam và vai trò của kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ . Trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến “Một số vấn đề về kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quá độ ở Việt Nam”.
B. Nội dung.
I. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam:
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Để có một xã hội Việt Nam như ngày nay không phải do tự nhiên mà có. Đó là do cả một quá trình tích luỹ chỉ đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam với một đường lối phát triển đúng hướng, kịp thời và sáng tạo có chọn lọc.
Việt Nam tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội ngay sau khi đất nước giành được độc lập. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản thể hiện được chính sách đường lối phát triển kinh tế ngày một hoàn thiện hơn về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con người của cả xã hội.
Xây dựng phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra một nền kinh tế có cơ sở nhảy vọt sang nền kinh tế sản xuất hiện đại. Chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tuy chậm và lâu dài nhưng nó diễn ra chắc chắn bởi vì những phương thức sản xuất của thời kỳ trước đó sẽ tạo ra những tiền đề cho phương thức sản xuất tiếp theo.
V.I.Lênin cho rằng:
“Muốn thực hiện được quá độ này đòi hỏi các quốc gia phải tạo lập được những điều kiện bên trong và bên ngoài”.
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ từ một xuất phát điểm hết sức thấp vì vậy ngay từ những năm 1930 với cương lĩnh đầu tiên của đảng cộng sản Đông dương đã đề ra. Sau khi hoàn thành cách mạng dân chủ thì tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ những điều kiện thuận lợi nội ngoại cảnh tác động tới đất nước ta là phù hợp, nhưng lại có bất lợi to lớn làm cho nền kinh tế của Nhà nước thiếu đi một cơ sở vật chất kỹ thuật của một nèen sản xuất lớn lẽ ra tạo lập được trong giai đoạn từ chủ nghĩa tư bản.
Như vậy quá độ là xu hướng mang tính quy luật phát triển do tự thân vận động của xã hội phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc bước sang thời kỳ quá độ.
2. Kinh tế Nhà nước là xu hướng mang tính quy luật của nền kinh tế nước ta đi từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn.
Để có một nền kinh tế Nhà nước như ngày nay không phải tự nhiên mà có nó do qúa trình tích luỹ về lượng ngay từ khi phát triển nền kinh tế đất nước còn chiến tranh, phụ thuộc vào các nước khác nền kinh tế không ổn định các cơ sở sản xuất thấp thu lỗ liên miên, cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải qua sự nỗ lực vượt bậc của con người tác động vào nền kinh tế, cải biến nó trong tổ chức, lãnh đạo, sản xuất lao động, trải qua nhiều thăng trầm phát triển của lịch sử giờ đây nền kinh tế đã tạo ra được những thành công đáng kể. Những thành tựu đạt được là kết quả của bước đầu thực hiện chương trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước từ Đại hội VI, VII, VIII. Ngày nay công cuộc xây dựng nền kinh tế đã có cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chạy đua về kinh tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế, về sự có mặt của các thành phần kinh tế, lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất, nền văn hoá và con người của toàn xã hội. Kinh tế Nhà nước chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế nước nhà.
Xây dựng và phát triển kinh tế Nhà nước tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại cũng là một quy luật, là điều tất yếu để đưa nền kinh tế phát triển bước qua thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản của chúng ta là đúng đắn. Tuy nhiên tính tất yếu và khả năng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là sự tổng hợp nhiều mặt, nhiều nhân tố kinh tế, chính trị xã hội tư tưởng... vì vậy kinh tế Nhà nước là quá trình mang tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế quá độ ở Việt Nam.
Kinh tế Nhà nước đã góp phần:
- Đóng góp, xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tích luỹ về lượng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Không ngừng tăng cường phát triển lực lượng sản xuất.
- Củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới Việt Nam.
Như vậy kinh tế Nhà nước là xu hướng mang tính quy luật, tất yếu của Việt Nam đi từ một nền sản xuất nhỏ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang nền sản xuất tập trung phát triển nền kinh tế Nhà nước tổng hợp. Muốn vậy phát triển nền kinh tế Nhà nước là phát triển tuần tự và phát triển nhảy vọt. Cùng một lúc vừa phải thực hiện và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự chỉ đạo của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II. Một số vấn đề thực tiễn lý luận trong quá trình thực hiện kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
1. Lý luận chung:
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Phương thức sản xuất. Cũng như vậy trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai . Các phương thức sản xuất này luôn bị lệ thuộc, chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị. Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế xã hội. Nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác mà chúng chỉ là những mảnh , bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội trong một hệ thống, thống nhất biện chứng.
Tuy nhiên nếu kinh tế Nhà nước là cái cấu thành nền tảng vật chất của kinh tế nước ta, thì quan hệ sản xuất là cơ sở hiện thực thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần của con người của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của sự phát triển đó là sự vận động theo hướng tiến lên cuả các hình thái kinh tế xã hội là sự thay thế hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Rằng sự vật và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các quy luật khách quan.
Ph.Ang-ghen khẳng định “Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau”. Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và “một xã hội ngay cả khi đã phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó... cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng “nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định kinh tế Nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại.
Tuy nhiên nền kinh tế thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Với tư cách là cơ sở lý luận của kinh tế Nhà nước thì một mặt, chúng ta phải đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. ở đây “Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với các thành phần kinh tế , tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phát triển nền kinh tế Nhà nước phải đi đôi với thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ trung tâm, nhằm từng bước phát triển kỹ thuật, công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ, tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới đồng thời từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả.
Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ “Nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế Nhà nước tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.
Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế xã hội với tu cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp phát triển kinh tế Nhà nước gắn liền với công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng hình thaí kinh tế xã hội ở nước ta. Nhiệm vụ lớnlao mà kinh tế Nhà nước phải thực hiện là: “tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất- kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng cải tạo quanhệ sản xuất, nhằm tăng năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái”.
a. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá vai trò nền kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Như ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiẹen nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung . Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội. Thật sự thì không phải như vậy. Nền kinh tế tập trung không phải là sản phẩm riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, cũng như nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập trung đã được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nước tư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập xã hội chủ nghĩa nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường . Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển xã hội theo quan điêmr Mác-Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con người có thể “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” nhưng thực tế, trong chủ nghĩa xã hội của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức phong phú dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên.
Những năm vừa qua với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã làm thế giới ngỡ ngàng, ca ngợi. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến hiện đại. Tất cả các thành tựu kinh tế mà chúng ta đã đạt được đã nói lên công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta là cuộc cách mạng thực sự.
Đổi mới ở nước ta không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho chúng ta nhận thức mới chính xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây ta nhận thức chưa đúng, hơn thế ta còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình. Chúng ta đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy kinh tế Nhà nước đã có những chính sách ưu tiên phát triển nền kinh tế kịp thời gắn liền với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng được nhận thức lại.
Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh . Đó là mục tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò của kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã làm lên biến cố lịch sử vĩ đại do vâỵ Đảng ta đã tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
Các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất lực trước vấn đề giải quyết quan hệ xã hội họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người . Một xã hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê luôn bị bóc lột sức lao động của mình không hưởng quyền cuả con người. Hiện nay Đảng ta đã đi đôi với phát triển kinh tế đất nước phải thực hiện mục tiêu “ổn định chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”.
Một muc tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của kinh tế Nhà nước Việt Nam đó là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia có nền kinh tế Nhà nước vững mạnh đưa đất nước phát triển về mọi mặt của xã hội thực hiện mong ước của Hồ Chủ tịch - Đảng cộng sản Việt Nam là “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
b. Đường lối chỉ đạo:
Nội dung thực hiện vai trò của kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm 2 nội dung chủ yếu là thực hiện tốt các nhiệm vụ của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ và trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiẹen đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phối hợp, phát triển nhiều thành phần kinh tế trong nước, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế....
Các -Mác nhận xét khoa học là động lực của sự phát triển kinh tế gắn liền công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hội nghị trung ương II một lần nữa nhấn mạnh “cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực phát triển kinh tế xã hôị, là điều cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định phát triển kinh tế Nhà nước.
Xây dựng cơ cấu, quan hệ kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một hoạt động có ý thức có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm tàng của đất nước, điều kiện phát triển của kinh tế là lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích luỹ quan hệ kinh tế quốc tế. Theo quy luật của vận động thì đấu tranh là cha đẻ của vận động. ở nước ta là một nước có nền kinh tế thấp thì việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là tất yếu, 5 thành phần kinh tế đó là: kinh tế Nhà nước (quốc doanh), kinh tế tập thể , kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước trong đó kinh tế Nhà nước luôn đứng đầu giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Nhà nước. Việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là khách quan nhưng kiểm soát được nhằm bảo đảm các quy luật của cạnh tranh (có cạnh tranh mới có phát triển) của nội bộ ngành kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết: nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ, từ nhận thức trên nên trong thực tiễn không dẫn đến những nôn nóng sai lầm trong cách làm và bước đi, thiếu kết hợp hài hoà quá trình vận dụng quy luật tuần tự với quy luật nhảy vọt, để tìm ra mô hình phát triển, đưa nước ta phát triển theo định hướng đã định.
áp dụng một cách máy móc mô hình “kinh tế chỉ huy” và theo đó là cơ chế quan liêu bao cấp mang năng tính hiện vật kéo dài, chính mô hình và cơ chế này đã vi phạm nghiêm trọng quy luật lợi ích của người lao động và của chủ thể kinh tế. Vô hình hay hữu ý đã xoá đi những mặt tích cực của kinh tế thị trường, làm kìm hãm sự phát triển của các thành phần kinh tế và lực lượng sản xuất.
2. Thực tiễn:
a. Quá trình phát triển vai trò kinh tế Nhà nước đòi hỏi phải có các điều kiện sau:
- Thứ nhất là thị trường lịch sử nhân loại chưa có một quốc gia nào khi phát triển kinh tế Nhà nước mà không cần đến thị trường vốn, công nghệ, lao động, tài nguyên. Các chính sách tự do hoá thương mại, giá cả, tín dụng... là cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng thị trường trong nước còn thị trường ngoài nước. Trong thời kỳ trước các quốc gia đã phải dùng chiến tranh để phân chia thị trường thế giới. Ngày nay tuy không còn chiến tranh mà vẫn mở rộng thị trường thông qua thoả thuận ký kết các hiệp nghị thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, đồng thời Việt Nam là thị trường hấp dẫn cho việc đầu tư nước ngoài.
Thứ hai là nguồn nhân lực: Đây là một trong những hạt nhân của lực lượng sản xuất. Thực tế ở nước ta phát triển kinh tế Nhà nước cho thấy là việc xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư tài chính cho giáo dục và y tế, thực hiện cơ chế thị trường trong việc sử dụng nhân lực kết hợp với chính sách ưu đãi là nguồn gốc cơ bản của thành công. Đối với nước ta không còn con đường nào khác là hợp tác trung tâm kỹ thuật có nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời đẩy mạnh giáo dục và đào tạo.
Thứ ba là công nghệ và vốn: để phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa thì không thể không cần đến công nghệ và vốn. Thực tế cho thấy các nước phát triển đều dựa chủ yếu vào phát triển công nghệ và vốn. Đối với Việt Nam thì thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là cần thiết đồng thời có chính sách thu hút vốn trong nước và phát triển công nghệ với 3 đặc trưng chủ yếu trên mô hình phát triển kinh tế hiện đại ở Việt Nam phải tận dụng tối đa lợi thế của nền kinh tế phát triển cao hơn, có chính sách cụ thể đúng đắn để điều chỉnh sự vận động của các nhân tố trên phục vụ đắc lực vào thực tiễn.
b. Phương hướng hiện nay là phát triển kinh tế Nhà nước theo hướng hiện địa hoá, phát triển theo mo hình công nghiệp hoá rút ngắn để đổi mới và tiếp tục phát triển kinh tế Nhà nước đồng thời phân loại và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Cần có chính sách, cơ chế phù hợp để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được đầu tư đảm bảo mục tiêu chính trị - xã hội trong quá trình tăng trưởng và phát triển nhằm nâng cao đời sống của người dân.
Mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước có nền kinh tế vững chắc, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lựclượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Mục tiêu này cho thấy sự nghiệp đó là một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó trước hết là vì con người và do con người.
c. Yêu cầu nảy sinh khi thực hiện vai trò kinh tế Nhà nước trong thời kỳ quá độ.
Trong bối cảnh hiện nay kinh tế Nhà nước đang được coi trọng, là xu hướng phát triển của nền kinh tế quốc gia. Đối với nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu thì việc phát triển kinh tế Nhà nước là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt từ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu thì trước hết kinh tế Nhà nước phải phát triển vượt bậc, song sẽ là sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt vấn đề xã hội, không tạo ra cân đối hài hoà giữa kinh tế và xã hội.
Tiếp tục đổi mới và phát triển vai trò kinh tế Nhà nước để đảm bảo mục tiêu kinh tế - xã hội song song với việc cần hoàn thiện chế độ, chính sách, luật pháp... để đảm bảo các doanh nghiệp Nhà nước thật sự là một đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân.
Cho đến nay sau hơn 10 năm đổi mới kinh tế Nhà nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, tại đại hội lần VIII Đảng ta đã khẳng định : “Nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho phát triển kinh tế Nhà nước đã cơ bản hoàn thành và cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh nền kinh tế gắn liền công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
III. ý kiến cá nhân:
1. Để kinh tế Nhà nước phát huy đúng vai trò:
Không thể thiếu các hạt nhân của nó, muốn phát huy được vai trò của nó ta phải phát triển nó.
a. Phát triển nguồn nhân lực:
Để triển khai những ý tưởng về phát triển kinh tế Nhà nước trước mắt cũng như lâu dài phải tính đến là sự cấu thành của năm thành phần kinh tế cùng với nguồn nhân lực. Vì vậy vấn đề cơ bản là giáo dục, cái nền của chất lượng nhân lực nhằm bổ sung cho 5 thành phần kinh tế, không phải đây là nhân lực chung chung mà là nhân lực của một nền kinh tế đang phát triển - nền kinh tế XHCN. Ngoài việc bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nhân lực còn đòi hỏi phải chú ý đến chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
b. Phát huy sức mạnh của 5 thành phần kinh tế.
Muốn vậy phải kiểm soát giảm những yếu tố tự phát trong cơ chế mới và đảm bảo nó phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Thị trường và vốn:
Thị trường cũng là một nhân tố quan trọng, là nơi diễn ra mọi hình thái kinh tế, là môi trường cạnh tranh tạo sự phát triển kinh tế nó là nơi giải quyết các mâu thuẫn tồn tại bên trong nền kinh tế. Do vậy chúng ta cần chú ý đến thị trường trong nước và ngoài nước để tạo ra động lực.
d. Bên cạnh các yếu tố đó còn phải kể đến các yếu tố có liên quan: chính sách Nhà nước, tài nguyên , môi trường tự nhiên, quan hệ quốc tế hoá.
2. Thực tiễn đã chứng minh kinh tế Nhà nước là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam là nước có nền kinh tế , xuất phát điểm thấp chịu hậu quả của chiến tranh, kinh tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách lạc hậu cần phát huy.
Điểm thứ nhất: phải sử dụng triệt để lợi thế nước phát triển muộn về công nghiệp.
Trải qua nhiều khó khăn, tự rút ra những bài học quý báu đó, Đảng ta đã khẳng định “tăng trưởng kinh tế gắn liền với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50159.DOC