MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu .2
1. Về quyền sở hữu .2
2. Về bảo vệ quyền sở hữu 3
II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu .4
1. Tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp .4
2. Bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự .10
3. Vụ án thực tế về bảo vệ quyền sở hữu 15
4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phương thức bảo vệ quyền sở hữu.18
KẾT LUẬN
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2866 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề về phương thức bảo vệ quyền sở hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m quyền lợi cho các chủ thể khác.
Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định một số hành vi nhất định xâm phạm đến quyền sở hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt tương xứng với mỗi loại hành vi phạm tội đó. Việc bảo vệ bằng biện pháp hình sự mang tính chất trừng trị và răn đe. Người nào có hành vi xâm phạm đến sở hữu XHCN (Điều 129 đến Điều 142 trong BLHS), sở hữu của công dân (theo Điều 151 đến Điều 163 BLHS), thì phải chịu trách nhiệm pháp lý tùy theo mức độ phạm tội.
Khác với các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu do luật hành chính và luật hình sự, chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu do Nhà nước thực hiện thì thông qua biện pháp dân sự, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền sở hữu có thể dùng các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở hữu của mình:
Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
Bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự.
Thực tế cho thấy, chủ sở hữu chủ yếu sử dụng các phương thức dân sự để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Bài viết này của em chỉ đề cập đến bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể thông qua các phương thức dân sự.
II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu
1. Tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
1.1. Khái niệm chung về biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu
Điều 255 BLDS ghi nhận:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật”
Tự bảo vệ quyền sở hữu là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản tự mình tiền hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được áp dụng các biện pháp nhất định để ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Hành vi xâm phạm trước tiên làm phát sinh quan hệ giữa chủ thể quyền và người xâm phạm. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hơn ai hết là người biết rõ mức độ và hậu quả của hành vi xâm phạm. Việc tự bảo vệ gắn liền với quyền lợi thiết thân của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vì vậy, tự bảo vệ cũng chính là việc thực hiện hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp.
Biện pháp tự bảo vệ cũng xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự và nguyên tắc hòa giải. Quan hệ tài sản dựa trên cơ sở bình đẳng, độc lập giữa các chủ thể tham gia. Vì vậy, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu các chủ thể khác tôn trọng quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Khi nảy sinh tranh chấp, pháp luật luôn khuyến khích các bên chủ thể chủ động thương lượng, hoà giải. Hòa giải là cách thức chủ yếu để chủ thể của quyền sở hữu tự bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp được áp dụng rất phổ biến trong đời sống. Lý do chính là quan niệm truyền thống của nhân dân ta là duy tình hơn duy lý. Người dân rất ngại phải liên quan đến việc kiện tụng. Chỉ trong những trường hợp bất đắc dĩ, không có cách giải quyết nào khác họ mới đưa nhau ra tòa.
1.2. Các hình thức tự bảo vệ quyền sở hữu
Truy tìm và đòi lạ tài sản
Thông thường, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp là người có quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp tài sản rời khỏi sự nắm giữ, quản lý của họ đến tay người khác hoàn toàn ngoài sự kiểm soát của họ. Để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu tài sản của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền truy tìm tài sản của mình. Truy tìm tài sản là hình thức đầu tiên để tự bảo vệ quyền sở hữu, cũng là cơ sở để chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện được việc tự đòi lại tài sản hoặc kiện đòi lại tài sản.
Khi phát hiện tài sản của mình đang nằm trong sự chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp của người khác, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể thực hiện quyền đòi lại tài sản. Điều 256 BLDS quy định “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Dù tự đòi lại tài sản hay yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải trả lại tài sản, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp vẫn có vai trò trung tâm, quyết định trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.
Họ phải tự chứng minh quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình; chứng minh tài sản đang do người khác chiếm hữu trái pháp luật.
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải xác định tài sản đang nằm trong sự chiếm hữu không có căn cứ pháp của ai.
Tự yêu cầu người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người này phải trả lại tài sản
Yêu cầu ngăn chặn và chấm dứt hành vi trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản để thoả mãn nhu cầu của mình trong đời sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi chủ thể được thực hiện các hành vi theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nhận thấy chủ thể khác có hành vi cản trở, xâm phạm hoặc có khả năng xâm phạm đến việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, họ có quyền thông báo, nhắc nhở, yêu cầu chủ thể này phải chấm dứt các hành vi đó. Biện pháp tự bảo vệ trong trường hợp này tạo khả năng bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu một cách nhanh chóng, kịp thời, nhiều trường hợp có thể tránh được thiệt hại xảy ra. Ví dụ:
Ông A xây nhà, vật liệu xây dựng nhà của ông A thường xuyên rơi xuống lóc nhà ông B gây hư hỏng mái nhà. Ông B có quyền yêu cầu ông A bằng các biện pháp của ông A không được để tình trạng như vậy xảy ra nữa.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại
Đây là biện pháp bảo vệ được áp dụng khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu gây ra thiệt hại về tài sản. Yêu cầu bồi thường thiệt hại có thể là yêu cầu độc lập hoặc kết hợp với yêu cầu đòi lại tài sản. Thiệt hại có thể là do tài sản bị hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, tài sản bị huỷ hoại, tiêu huỷ… Trong trường hợp chủ sở hữu không thể đòi lại tài sản, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể yêu cầu người có lỗi gây ra thiệt hại về tài sản phải bồi thường. Khi yêu cầu bồi thường thiệt hại, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có các chứng từ, giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí đã bỏ ra để khắc phục thiệt hại.
Ở ví dụ trên, ông A đã gây thiệt hại về tài sản đối với ông B. Ông B có quyền yêu cầu ông A bồi thường đối với phần tài sản bị hư hỏng và ông A có nghĩa vụ phải trả khoản tiền bồi thường đó.
Trong việc bảo vệ quyền sở hữu, vai trò tự bảo vệ của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp rất quan trọng. Tự bảo vệ vừa là quyền, trong nhiều trường hợp còn là trách nhiệm của chủ sở hữu trong việc bảo vệ quyền sở hữu. Biện pháp tự bảo vệ góp phần giảm thiểu các tranh chấp tại Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, giúp giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm thời gian và chi phí.
1.3. Ưu điểm và hạn chế của phương thức tự bảo vệ quyền sở hữu
Ưu điểm
Thứ nhất, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính định đoạt cao độ của chủ thể: Khi phát hiện ra những hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể chủ động linh hoạt lựa chọn cách thức bảo vệ phù hợp như: yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ thể có quyền thương lượng hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, về cách thức, biện pháp tự bảo vệ có thể tiến hành dưới bất kỳ cách thức nào, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, tính rườm rà được hạn chế, trong khi việc khởi kiện hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết phải tuân thủ theo những điều kiện, trình tự, thủ tục nhất định như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, hình thức tiến hành…
Thứ ba, về kinh tế, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thời gian, chi phí tốn kém cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham gia tố tụng, chi phí giám định.
Thứ tư, xét về mặt tình cảm, với truyền thống duy tình của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng nghĩa xóm
Thứ năm, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn và càng quan trọng hơn khi biết được phần lớn các vụ án hình sự xuất phát từ các tranh chấp dân sự liên quan đến sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu.
Hạn chế
Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu điểm về hiệu quả bảo vệ như: nhanh chóng, kịp thời, một hạn chế lớn nhất của biện pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao do không được bảo đảm bằng tính cưỡng chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính quyền lực Nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này khó mang lại hiệu quả.
Thêm nữa, việc không có sự can thiệp của những cơ quan có thẩm quyền mang tính quyền lực nhà nước, các chủ thể dễ lâm vào tình trạng tự do thể hiện ý chí và hành động của mình không theo khuôn khổ pháp luật, điều này dễ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về cả vật chất lẫn tinh thần của các bên khi tự giải quyết tranh chấp.
2. Bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự
2.1. Khái niệm chung về biện pháp bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức kiện dân sự
Bên cạnh quyền tự bảo vệ, pháp luật dân sự còn quy định cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp có quyền kiện dân sự để yêu cầu tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Điều 255 Bộ luật dân sự quy định:
“Chủ sở hữu, những người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
Những phương thức này gọi chung là phương thức kiện dân sự - phương thức được áp dụng khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ được quyền sở hữu trước hành vi xâm hại của chủ thể khác gây ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền của chủ sở hữu của mình. Xuất phát từ tính chất đa dạng trong bản thân sự xâm hại tới quyền sở hữu mà phương thức kiện dân sự cũng có rất nhiều loại khác nhau. Chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền lựa chọn một trong ba phương thức kiện sau đây khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định
2.2 Các hình thức kiện dân sự
Kiện đòi lại tài sản
Phương thức kiện đòi tài sản khá phổ biến khi các chủ sở hữu muốn lựa chọn hình thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Kiện đòi lại tài sản là việc người chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp kiện lên tòa án, các cơ quan khác yêu cầu người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của mình trả lại tài sản. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy, một mặt, BLDS đã thiết kế các quy tắc kiện đòi lại tài sản dựa vào tiêu chí phân biệt giữa người chiếm hữu ngay tình và người chiếm hữu không ngay tình và mặt khác, dựa vào việc phân định giữa tài sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu.
Tuy nhiên điều kiện chung áp dụng cho phương thức kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 BLDS khi có các điều kiện sau:
- Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng cho, thừa kế theo di chúc;
- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp;
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp;
- Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.
Tính không thống nhất giữa các quy định của BLDS về quyền đòi lại tài sản có thể nhận thấy được. Điều 256 quy định người có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp tài sản bị chiếm hữu, bị sử dụng không có căn cứ pháp luật từ một người khác là “chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp”. Trong khi đó ở Điều 257 và 258, lần lượt quy định về quyền đòi lại tài sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình và quyền đòi lại động sản phải đăng kí quyền sở hữu, bất động sản từ người chiếm hữu, quy định chỉ “chủ sở hữu” mới có quyền đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình từ người chiếm hữu ngay tình. Thực tế cho thấy người chiếm hữu hợp pháp cũng cần có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình. Ví dụ: A cho B thuê chiếc xe máy, B cho mượn, C bán cho D, D là người ngay tình. Trong trường hợp này người chiếm hữu hợp pháp là B cần được trao quyền để đòi lại tài sản bởi lí do: thực tế thấy rằng tài sản trong trường hợp này không chỉ chuyển giao giữa ba người A, B, C mà được chuyển giao cho D hoặc một người E tiếp theo, cần trao quyền cho B để thời hiệu khởi kiện không bị rút ngắn, khi B kiện thì bớt rắc rối hơn khi A kiện đến người sau cùng là người đang sử dụng, chiếm hữu vật.
Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây được gọi là phương thức kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuỳ từng trường hợp, chủ sở hữu có quyền lựa chọn ba hình thức khởi kiện khác nhau. Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hoặc tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng.
Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc châm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Nếu người này không tự nguyện chấm dứt thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm. Mục đích chính của phương thức này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
2.3. Ưu điểm, hạn chế của phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền sở hữu
Có thể nhận thấy rằng, so với các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác thì phương thức kiện dân sự có những điểm khác biệt và nó làm nên tính ưu việt cũng như cũng có những hạn chế nhất định so với các phương thức khác.
Ưu điểm
Thứ nhất, đây là phương thức mang tính thực tế rất lớn. Tính thực tế này xuất phát từ chỗ những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu thông thường nảy sinh trong đời sống xã hội, xâm phạm tới các quyền tài sản của các chủ thể và do vậy chủ yếu thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Thứ hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng một cách rộng rãi hơn các biện pháp khác. Thông thường biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong ngành luật hình sự chỉ áp dụng khi hành vi xâm phạm đó được cấu thành tội phạm theo quy định trong Bộ luật hinh sự sự (BLHS). Biện pháp thuộc ngành luật hành chính thông thường áp dụng khi tài sản bị xâm phạm tới là tài sản của Nhà nước. Chủ thể áp dụng biện pháp hành chính và biện pháp hình sự chỉ có thể là các cơ quan nhà nước bởi vậy trong rất nhiều trường hợp việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trên thực tế không phát huy được hiệu quả một cách tuyệt đối. Riêng biện pháp kiện dân sự được áp dụng rộng rãi bởi lẽ: việc xâm phạm tài sản mang tính chất dân sự diễn ra phổ biến; các chủ thể có thể áp dụng các phương thức kiện dân sự một cách dễ dàng bằng việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu chủ thể vi phạm bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện rất thuận lợi và dễ dàng cho mọi chủ thể có quyền sở hữu bị xâm phạm tự mình chủ động thực hiện phương thức này. Đây là một điểm khác biệt rất lớn so với các phương thức khác. Phương thức bảo vệ trong ngành luật hành chính tuân thủ các thủ tục hành chính tương đối phức tạp của các cơ quan Nhà nước. Còn phương thức trong ngành luật hình sự thì đỏi hỏi phải đáp ứng đủ việc cấu thành tội phạm và tuân theo thủ tục tố tụng hình sự cũng tương đối phức tạp và mất thời gian, khó có thể khôi phục nhanh chóng tình trạng tái sản như ban đầu. Riêng phương thức kiện dân sự vì tuân theo thủ tục tương đối nhanh gọn, khắc phục nhanh chóng tình trạng như ban đầu, hơn nữa khi các chủ thể có thể đã đệ đơn yêu cầu toà án ra quyết định buộc chủ thể có hành vi xâm phạm quyền sở hữu chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc đòi lại tài sản cho mình nhưng vẫn có thể được quyền thoả thuận và rút lại đơn kiện
Hạn chế
Thứ nhất, để thực hiện phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng kiện dân sự.
Thứ hai, hiệu quả của việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự gắn liền với việc thi hành án dân sự nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
3. Vụ án thực tế về bảo vệ quyền sở hữu
Nội dung
Năm 1944, cụ Vũ Tá T và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90 m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971,1990,2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Tháng 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27 m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2
Tòa án cấp sơ thẩm xác minh:
Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60 m2 đất ao của cụ Vũ Tá T, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán).
Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá T và vợ là cụ Hoàng Thị N
Quyết định
Bản án số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ T và cụ N Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ ngọc L Buộc gia đình ông T trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60 m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38 m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25 m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T.
Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L
Nhận xét cách giải quyết của Tòa án
Đánh giá chứng cứ: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; Phần nhà đất của ông T có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ.
Nhận định của án phúc thẩm có phần khiên cưỡng, không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ T và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T. đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ T và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8 m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ.
Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ T cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá T.
Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng.
Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; Cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông.
4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phương thức bảo vệ quyền sở hữu
4.1. Cần quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu
Việc đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS hiện hành tỏ ra bất cập. Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người kiện nghĩa vụ nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện của nước ta hiện nay, điều này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản không có giấy chứng nhận.
Cần tách riêng chế định chiếm hữu ra khỏi chế định sở hữu, đồng thời quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm hữu. Sự chiếm hữu cần được suy đoán là chiếm hữu cả chủ sở hữu. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật hay không có căn cứ pháp luật, trước tiên cũng cần được bảo vệ (BLDS không bảo vệ quyền chiếm hữu không có căn cứ pháp luật). Không giống pháp luật dân sự Việt Nam, pháp luật ở một số nước thừa nhận nguyên tắc: sự ngay tình bao giờ cũng được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số vấn đề về phương thức bảo vệ quyền sở hữu.docx