Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định, trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Quy định trên đây đã bộc lộ một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng, đó là do bản chất của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, vì vậy biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của họ có nguy cơ bị xâm phạm.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số ý kiến về Dự thảo Luật Trọng tài thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số ý kiến về Dự thảo Luật Trọng tài thương mại
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 của Quốc hội khóa XII, Dự án Luật Trọng tài thương mại sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2009). Đây là Dự án Luật có ý nghĩa rất lớn trong việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; khuyến khích sử dụng Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên, trước hết xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân, pháp nhân muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Tuy nhiên, Dự thảo Luật (1) vẫn cần thêm nhiều ý kiến đóng góp để tiếp tục được hoàn thiện.
1. Phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài thương mại
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài là một nội dung mà trong cả quá trình soạn thảo cũng như tại các cuộc hội thảo khoa học về Dự án Luật Trọng tài thương mại đang có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm vi thẩm quyền của Trọng tài chỉ giải quyết các tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và có mở rộng thêm các trường hợp liên quan đến một bên có hoạt động thương mại, cũng như những trường hợp không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng được các luật khác điều chỉnh. Quan điểm thứ hai đề nghị cần mở rộng thẩm quyền của Trọng tài cho tất cả các tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng giữa các chủ thể dân sự, không phân biệt tranh chấp thương mại với dân sự (trừ một số loại tranh chấp).
Do còn có những ý kiến khác nhau về phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài, Ban soạn thảo đã trình Quốc hội hai phương án thể hiện tại Điều 2 Dự thảo Luật, cụ thể như sau:
Điều 2:
Phương án 1:
“Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài thương mại“
Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau đây:
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại áp dụng theo quy định của Luật Thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp giữa các bên phát sinh không từ hoạt động thương mại đã được quy định ở các Luật khác”.
Phương án 2:
“Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài “
1. Tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng hoặc nghĩa vụ ngoài hợp đồng có thể được giải quyết bằng Trọng tài.
2. Các tranh chấp sau đây không thuộc thẩm quyền của Trọng tài:
a) Tranh chấp liên quan đến các quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình.
b) Tranh chấp liên quan đến việc phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
c) Tranh chấp về bất động sản.
d) Tranh chấp giữa các Chính phủ, trừ trường hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
đ) Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác theo quy định của pháp luật”.
Phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài thương mại là một nội dung rất quan trọng của dự thảo Luật Trọng tài thương mại, vì vậy, nội dung này cần phải được xem xét trên cơ sở kế thừa những quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; thực tiễn về hoạt động trọng tài thương mại ở nước ta trong thời gian qua và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài. Đối với phương án 2, phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài là rất rộng, bao gồm các tranh chấp thương mại và cả các tranh chấp dân sự. Những ý kiến đồng ý với phương án 2 cho rằng, trong thực tiễn có những trường hợp tranh chấp ngoài hợp đồng như đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng, hàng hải, vận tải… cũng có thể được giải quyết bằng Trọng tài theo ý chí của các bên có liên quan, mặc dù các tranh chấp như vậy không xuất phát từ hoạt động thương mại theo Luật Thương mại năm 2005. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài ở Việt Nam vừa qua cho thấy, có một số vụ tranh chấp rất khó xác định đó là tranh chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh, thương mại. Điều này có thể dẫn tới nhiều vụ việc kinh doanh thương mại không được Trọng tài thụ lý, nhiều phán quyết Trọng tài có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu do không đúng thẩm quyền vì không xuất phát từ hành vi thươmg mại. Do vậy, phạm vi thẩm quyền của Trọng tài quy định theo phương án 2 thì sẽ giải quyết được những vướng mắc nêu trên.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, Luật Trọng tài thương mại nên quy định theo phương án 1, dựa trên các căn cứ sau đây: khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 có phạm vi tương đối rộng, đã khắc phục được hạn chế về phạm vi thẩm quyền quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. ở nước ta, phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài chưa phổ biến và chưa được nhiều người biết đến. Thực tiễn qua hơn 6 năm thi hành Pháp lệnh này mới có 07 Trung tâm Trọng tài được thành lập, trong đó có 03 Trung tâm từ khi thành lập đến nay chưa giải quyết được vụ việc nào. Theo báo cáo tổng kết 6 năm thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 của Ban soạn thảo Luật Trọng tài thương mại, thì số vụ việc được giải quyết bằng Trọng tài trong 6 năm qua mới có 280 vụ. Khả năng và uy tín chuyên môn của một số Trọng tài viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo Luật mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế của ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại quốc tế thì phạm vi điều chỉnh cũng chủ yếu được áp dụng trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Vì vậy, trong giai đoạn trước mắt chưa nên mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài giải quyết cả các tranh chấp về dân sự. Trọng tài thương mại chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và các trường hợp liên quan đến một bên có hoạt động thương mại, cũng như một số trường hợp được các luật khác quy định, là phù hợp.
2. Trọng tài viên
Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Dự thảo Luật Trọng tài thương mại đã quy định tiêu chuẩn đối với Trọng tài viên nhằm định hướng đúng đắn cho việc hình thành và phát triển đội ngũ Trọng tài viên có năng lực, có tính chất chuyên nghiệp và có uy tín trong xã hội. Theo đó, Điều 17 dự thảo Luật quy định:
“Tiêu chuẩn Trọng tài viên
1. Những người có đủ các điều kiện sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ năm năm trở lên;
c) Trường hợp không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn có thể được Trung tâm Trọng tài tuyển chọn làm Trọng tài viên.
Ngoài các tiêu chuẩn nêu trên, Trung tâm Trọng tài có thể quy định thêm các tiêu chuẩn khác đối với Trọng tài viên của tổ chức mình.
2. Người chưa phải là Trọng tài viên nhưng đang là bị can, bị cáo hoặc đang bị kết án mà chưa được xóa án tích thì không được làm Trọng tài viên.
3. Người đang là Trọng tài viên nhưng đã bị kết án thì buộc phải thôi làm Trọng tài viên.
4. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan Điều tra, Cơ quan Thi hành án thì không được làm Trọng tài viên”.
Như vậy, tiêu chuẩn quy định ở các điểm a và b khoản 1 là những tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên, ngoài ra các Trung tâm trọng tài có thẩm quyền quy định thêm các tiêu chuẩn khác đối với Trọng tài viên của tổ chức mình. Quy định này nhằm tạo cho các Trung tâm Trọng tài có điều kiện xây dựng thương hiệu với đội ngũ Trọng tài viên có uy tín để cạnh tranh với các trung tâm trọng tài khác trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Đối với tiêu chuẩn quy định tại điểm c khoản 1 là quy định mới so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế khi một người có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có uy tín và được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp cho họ, nhưng lại không có tiêu chuẩn quy định ở điểm b khoản 1 thì vẫn được làm Trọng tài viên. Về nguyên tắc thì dù vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài hay do Trọng tài vụ việc giải quyết thì Trọng tài viên đều phải do các đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín cá nhân của họ. Do đó, nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài để giải quyết việc cho họ. Chúng tôi đồng ý với quy định này, tuy nhiên, tiêu chuẩn quy định tại điểm c khoản 1 cần được quy định cụ thể các tiêu chí được xác định như thế nào là có trình độ chuyên môn cao và như thế nào là có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để có căn cứ áp dụng. Mặt khác quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 17 cần được quy định để áp dụng đối với cả Trọng tài vụ việc. Ngoài ra cần bổ sung vào Khoản 3, Điều 17 trường hợp người đang là Trọng tài viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng không được làm Trọng tài viên.
3. Các hình thức Trọng tài
Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 quy định có hai hình thức Trọng tài, đó là Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức và Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập. Kế thừa các quy định về mô hình Trọng tài của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, dự thảo Luật Trọng tài thương mại đã quy định cụ thể hơn về từng hình thức Trọng tài. Dự thảo Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm “Hội đồng Trọng tài được thành lập tại Trung tâm Trọng tài”; khái niệm Trọng tài vụ việc thay cho khái niệm “Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập”, được quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Theo quy định tại Khoản 6 Điều 3 Dự thảo Luật thì “Trọng tài vụ việc là hình thức Trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo trình tự, thủ tục do họ thỏa thuận”. Loại hình Trọng tài này được phổ biến ở nhiều nước nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các tranh chấp trong hoạt động của nền kinh tế thị trường, nhất là cho các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có khuynh hướng phát triển mạnh mẽ hiện nay. Loại hình này có lợi thế là thỏa mãn sự tự lựa chọn một cách linh hoạt của các bên tranh chấp. Còn theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Dự thảo Luật thì “Trọng tài quy chế là hình thức Trọng tài được tiến hành tại một Trung tâm Trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài”. Thực tế trong 6 năm thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại, các vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài đều theo hình thức Trọng tài quy chế, không có một vụ việc nào được giải quyết bằng hình thức Trọng tài vụ việc. Với thực trạng như vậy, nên trong các cuộc hội thảo về dự án Luật Trọng tài thương mại đã có ý kiến đề nghị bỏ hình thức Trọng tài vụ việc, không quy định trong dự thảo Luật.
Chúng tôi tán thành với Ban soạn thảo cần quy định hai hình thức trọng tài đó là Trọng tài quy chế và Trọng tài vụ việc trong Dự thảo Luật. Tuy nhiên, để hình thức Trọng tài vụ việc phát triển như Trọng tài quy chế đề nghị cần bổ sung vào Dự thảo Luật những quy định mang tính đặc thù của Trọng tài vụ việc để bảo đảm cho Trọng tài vụ việc hoạt động có hiệu quả, những quyết định của Trọng tài vụ việc phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành.
4. Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định, trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Quy định trên đây đã bộc lộ một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng, đó là do bản chất của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, vì vậy biện pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của họ có nguy cơ bị xâm phạm.
Để khắc phục hạn chế nêu trên, Dự thảo Luật đã nâng vị thế của Trọng tài lên bằng cách cho phép Hội đồng trọng tài cũng có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kể từ khi Hội đồng trọng tài được thành lập. Quy định trên đây sẽ giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của ủy ban Liên hợp quốc về Luật trọng tài quốc tế. Luật Trọng tài của nhiều nước trên thế giới cũng quy định cho trọng tài có thẩm quyền này. Để tránh xung đột về thẩm quyền, dự thảo Luật cũng cần quy định khi một bên đương sự đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì Tòa án phải từ chối ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trả lại đơn cho bên yêu cầu. Chúng tôi tán thành với quy định Hội đồng trọng tài có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tuy nhiên dự thảo Luật cần bổ sung quy định kể từ khi bắt đầu quá trình tố tụng trọng tài, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì Hội đồng trọng tài phải từ chối ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong quá trình giải quyết tranh chấp ngoài nguyên đơn, bị đơn còn có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (người thứ ba), nên trong nhiều trường hợp, theo yêu cầu của nguyên đơn, cũng cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với người thứ ba. Vì vậy dự thảo Luật cũng cần quy định cụ thể thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với người thứ ba. Chúng tôi đề nghị nên giao thẩm quyền này cho Tòa án nhân dân.
5. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc
Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc là một nội dung có nhiều ý kiến tranh luận trong các cuộc hội thảo khoa học về Dự án Luật Trọng tài thương mại. Có ý kiến cho rằng, cần phải có quy định về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc, nhưng cũng có ý kiến ngược lại cho rằng, không cần phải đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc trong Dự án Luật Trọng tài thương mại. Do đang còn có những ý kiến khác nhau nên Ban soạn thảo đã đưa ra hai phương án để Quốc hội xem xét, quyết định. Phương án 1: không có Điều 62 về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. Phương án 2 có Điều 62 về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc và quy định như sau:
“1. Theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp, phán quyết của Trọng tài vụ việc được đăng ký tại tòa án có thẩm quyền quy định tại Điều 7 của luật này để hỗ trợ việc thi hành phán quyết trọng tài đó.
2. Bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu sau đây:
a. Phán quyết trọng tài do Hội đồng trọng tài vụ việc ban hành;
b. Biên bản phiên họp giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài vụ việc;
c. Thỏa thuận trọng tài.
3. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc cùng các tài liệu kèm theo quy định tại khoản 2 điều này, Tòa án có thẩm quyền phải thông báo cho bên có yêu cầu biết về việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. Trong trường hợp từ chối đăng ký phán quyết trọng tài thì Tòa án phải nêu rõ lý do cho bên có yêu cầu biết”.
Chúng tôi tán thành với phương án 2 trong Dự thảo Luật Trọng tài thương mại về đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc, vì Trọng tài vụ việc có điểm đặc thù khác với Trọng tài quy chế. Trọng tài quy chế được thành lập tại các Trung tâm Trọng tài đã được cấp phép và đăng ký hoạt động, là pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Các Trọng tài viên là những người đã được Trung tâm Trọng tài tuyển chọn, đưa vào danh sách Trọng tài viên. Còn Trọng tài vụ việc là hình thức Trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo trình tự, thủ tục do họ thỏa thuận. Vì vậy, việc đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc tại Tòa án khi có yêu cầu của đương sự là cần thiết nhằm xác định tính pháp lý đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, tạo cơ sở để cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán quyết này. Tuy nhiên, việc quy định thủ tục đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc tại Tòa án cần đơn giản, nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho bên yêu cầu đăng ký. Bên cạnh đó, đề nghị dự thảo Luật cũng cần quy định trường hợp đăng ký tại Tòa án đối với cả quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Trọng tài vụ việc để cơ quan Thi hành án dân sự, cá nhân, tổ chức có liên quan có cơ sở thi hành.
6. Hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
Theo Tờ trình, Ban soạn thảo đề nghị không tách các quy định về hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam thành một chương riêng mà các quy định này được thể hiện ở các điều tương ứng của Dự thảo Luật và giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của Tổ chức Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Qua nghiên cứu Dự thảo Luật Trọng tài thương mại, chúng tôi thấy rằng, Dự thảo Luật mới chỉ có một số quy định chung về hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, còn nhiều nội dung liên quan đến Trọng tài có yếu tố nước ngoài nói chung chưa được quy định trong Dự thảo Luật, đó là: các trường hợp tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền của Trọng tài nước ngoài; các hình thức Trọng tài nước ngoài; điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập và hoạt động của Trọng tài nước ngoài; cơ quan có thẩm quyền cấp phép đối với chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng Trọng tài; việc thi hành phán quyết của Trọng tài trong trường hợp có yếu tố nước ngoài... Việc quy định hoạt động của Trọng tài thương mại có yếu tố nước ngoài trong Dự thảo Luật nên kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (đã có một điều quy định về giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài bằng Trọng tài). Luật Luật sư năm 2006 cũng có một chương riêng quy định về hành nghề của Tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, Luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Luật Trọng tài của nhiều nước cũng có những quy định riêng, đặc thù đối với các trường hợp có yếu tố nước ngoài; một số nước, ngoài việc ban hành Luật Trọng tài trong nước còn ban hành một luật riêng điều chỉnh các trường hợp Trọng tài có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, Dự thảo Luật Trọng tài thương mại cần bổ sung một chương riêng quy định các trường hợp có yếu tố nước ngoài.
(1) Dự thảo Luật tháng 9/2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số ý kiến về Dự thảo Luật Trọng tài thương mại.doc