Tiểu luận Một số ý kiến về vấn đề trồng, khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

 

 

Phần I: Mở đầu

 

Phần II: Thân bài

1.Hiện trạng

2. Nguyên nhân

3. Giải pháp

3.1. Đề xuất của cá nhân người viết

3.2. Những giải pháp của nhà nước (khái quát về dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng)

3.3. Vài nét phân tích và đánh giá về dự án Trồng mới 5 triệu hecta rừng của nhóm thực hiện đề tài

3.4. Đánh giá chung về dự án Trồng mới 5 triệu hecta rừng

 

Phần III. Kết luận

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 5807 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số ý kiến về vấn đề trồng, khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành vi phá rừng, khai thác, tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm túc có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng phá rừng và các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục tái xuất hiện. chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao.. thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá rừng cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các nguồn lực cho bảo vệ rừng. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án (chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo; các chương trình 135; 132 và 134; 120; 661 Chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu kiên quyết lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, lạc hậu cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ rừng hết sức khó khănPhần này cũng tạm được. Tuy cũng copy nhưng sử dụng hợp lý 3.Giải pháp 3.1.Đề xuất của cá nhân 3.1.1.Một số đặc điểm của rừng. - Rừng cung cấp nguyên liệu cho con người làm nhà, nhiên liệu và rất nhiều sản phẩm làm từ gỗ, làm sạch không khí nhờ việc hấp thụ khí cacbonic và nhả khí oxi vào không khí, là nhà của các động vật hoang dã, rừng có vai trò giữ nước, vai trò giải trí. - Rừng là cây lâu năm, ngoài giá trị thực là gỗ và các nguyên liệu khác rừng còn có tính giá trị là tính bảo tồn của chúng. - Không giống như cây hang năm việc quyết định thu hoạch và trồng do những cây này có tính thời vụ của nó, thì việc quyết định khi nào khai thác rừng lại là vấn đề phức tạp, việc quản lí rừng bằng cách áp dụng các biện pháp kinh tế và các kiến thức sinh thái học giúp cho việc đưa ra các quyết định hiệu quả nhất. - Thời gian là đầu vào quan trọng của rừng. - Sản phẩm gỗ của rừng cũng là vốn, chúng có thể thu hoạch năm nay hoặc những năm tương lai. - Gía trị phúc lợi của rừng còn cao hơn nhiều giá trị gỗ mà rừng mang lạiViết một bài luận không nên viết kiểu này . 3.1.2.Một số vấn đề về quản lí khai thác rừngSố liệu trong bảng và biểu đồ cũng được nhưng lý luận quá sơ sài Tuổi cây Sản lượng gỗ(m3) Sản lượng gỗ tb năm(m3) Tăng trưởng(m3) 10 694 69.4 20 1912 95.6 1218 30 3558 118.6 1646 40 5536 138.4 1978 50 7750 155.0 2214 60 10104 168.4 2354 70 12502 178.6 2398 80 14848 185.6 2346 90 17046 189.4 2198 100 19000 190.0 1954 110 20614 187.4 1614 120 21792 181.6 1178 130 22438 172.6 646 135 22514 166.770 76 a.Quản lý hiệu quả rừng. Thuộc tính đặc biệt của tài nguyên rừng(gỗ) là ngoài những đặc điểm thông thường và hàng hóa thị trường nó còn có thuộc tính đặc biệt là hàng hóa vốn, nghĩa là khi chúng ta không khai thác thì cây tăng trưởng và làm tăng vốn. Bởi vậy mỗi năm, nhà quản lý thường phải quyết định khi nào thu hoạch khi nào trồng rừng trong thời gian trồng rừng có thể mất tới 25 năm hoặc hơn. Để xem xét sự tăng trưởng sinh học ta có thể xem đồ thị trên. Nếu ta dựa vào sản lượng trung bình năm thì sản phẩm cực đại vào năm 100, còn nếu dựa vào mức tăng trưởng sản phẩm gỗ thì mức tăng cực đại sẽ sớm hơn là vào năm thứ 70. Vậy nếu chỉ dựa vào 2 con số này để lựa chọn thì rõ ràng chúng ta sẽ dựa vào giá trị tăng trưởng cực đại là năm 70 để khai thác. b.Kinh tế khai thác rừng. Tuy nhiên nhà kinh tế quyết định khai thác không chỉ dựa vào tăng trưởng sinh học mà còn phải tính toán chi phí khai thác, chi phí trồng rừng và lợi ích đem lại từ khai thác gỗ là bao nhiêu ? Bảng Suất chiết khấu r=0 Suất chiết khấu r=2% Năm Sản lượng Giá trị sảnlượng (tr đ) Chi phí (tr đ) Lợi ích ròng (tr đ) Gía trị sản lượng (tr đ) Chi phí (tr đ) Lợi ích ròng (tr đ) 10 694 694 1208.2 -514.2 569 1171 -601 20 1912 1912 1573.6 338.4 1287 1386 -99 30 3558 3558 2067.4 1490.6 1964 1589 375 40 5536 5536 2660.8 2875.2 2507 1752 755 50 7750 7750 3325.0 4425.0 2879 1864 1016 60 10104 10104 4031.2 6078.8 3080 1924 1156 70 12502 12502 4750.6 7751.4 3126 1938 1188 80 14848 14848 5454.4 9393.6 3045 1914 1132 90 17046 17046 6113.8 10932.2 2868 1860 1008 100 1900 1900 6700.0 12300.0 2623 1787 836 110 20614 20614 7184.2 13429.8 2334 1700 634 120 21792 21792 7537.6 14254.4 2024 1607 417 130 22438 22438 7731.4 14706.6 1710 1513 197 135 22514 22514 7754.2 14759.8 1554 1466 88 Nếu ko tính suất chiếu khấu thì càng để tuổi cây dài thì lợi ích ròng càng cao. Tuy nhiên, trong thực tế tính toán chúng ta phải dựa vào suất chiết khấu để hiện tại hóa các giá trị. Dựa vào giá trị hiện tại cực đại của gỗ khi tính suất chiết khấu 2% thì nên khai thác vào năm 70. Qua đây cho thấy : Chỉ với suất chiết khấu rất nhỏ 2% cũng rút ngắn thời gian khai thác xuống một nửa. Nếu suất chiết khấu càng cao khai thác rừng càng sớm. Về thời điểm khai thác thì dựa trên tăng trưởng sinh học về mặt lượng cũng cho kết quả giống như các tính toán kinh tế. điều này liệu có thể cho ta quyết định thời điểm thu hoạch chỉ cần dựa trên tính toán giá trị cực đại của tăng trưởng sinh học (lượng) bất kể chi phí thu hoạch và chi phí trồng lại rừng bằng bao nhiêu ? Chi phí trồng rừng được tính toán trong mô hình này rất quan trọng bởi nếu chi phí trồng quá lớn, đến mức lớn hơn cả giá trị của gỗ làm cho lợi ích ròng luôn âm, thì việc trồng loại cây này không thích hợp cho mục đích thương mại Các biện pháp quản lí hiệu quả tài nguyên rừng. Vấn đề quyền sở hữu: Mô hình trên cho thấy nếu nỗ lực khai thác ở tốc độ tăng trưởng cực đại(Emsy) thì rõ ràng chưa chắc có lợi nhuận tối đa, mà thực tế để có được lợi nhuận tối đa thì khai thác thường ở bên trái Emsy. Tuy nhiên sự khai thác tài nguyên muốn đạt được lợi nhuận tối đa thì nhất thiết quyền sở hữu tài nguyên phải được xác định, còn khi quyền sở hữu tài nguyên không được xác định, con người sẽ khai thác tài nguyên đến khi doanh thu bằng chi phí(TR=TC) tức là sự nỗ lực khai thác đạt tới Eoa. Nếu cố gắng khai thác hơn nữa thì người khai thác bị lỗ, π <0. Điểm OA(Opening accessement) gọi là điểm khai thác “tài nguyên vô chủ”. Việc sở hữu rừng tư nhân có thể khuyên khích chủ sở hữu quay vòng nhanh và tăng cường đầu tư để đạt được năng suất gỗ cao và do vậy chu kì khai thác nhanh hơn; tuy nhiên đôi khi hộ không lựa chọn tối đa hóa lợi nhuận bởi quy mô rừng quá nhỏ. Rừng thuộc sở hữa công dường như hướng tới quản lí hiệu quả hơn với mục tiêu quản lí đa sử dụng thông qua việc sử dụng các phân tích kinh tế rõ rằng hơn. Thuế. Quota khai thác. Khuyến khích xuất khẩu gỗ chế biến. Giao đất rừng cho hộ. Trợ giá cho trồng mới Năng suất bền vững là năng suất (theo tác giả Nguyễn Văn Song, giáo trình kinh tế tài nguyên môi trường, năm 2006) c. Một số đề xuất của cá nhân nhóm thực hiện trong công tác trồng, khai thác và bảo vệ rừng: - Với những phân tích như trên, chúng tôi thấy rằng việc khai thác cây rừng khi chúng già là điều cần thiết nó vừa mang lại hiệu quả kinh tế vùa đảm bảo yếu tố sinh thái, tạo không gian cho những cây non. Ngoài ra chúng tôi còn thấy rằng với những dẫn chứng kinh tế như trên thì việc giao đất giao rừng cho các tổ chức cá nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng là điều mà chúng ta nên làm sâu rộng. - Tuy nhiên làm thế nào để vai trò của nhà nước vẫn không bị lu mờ khi thực hiện chính sách giao đất giao rừng cho người dân? Vì theo suy nghĩ của chúng tôi, chúng tôi tạm chia rừng mà nhà nước giao cho người dân thành 2 loại + Loại thứ nhất là loại mà trên đất đã sẵn có rừng, nhà nước giao cho người dân để họ quản lí, bảo vệ và khai thác rừng, như vậy rừng vẫn được khai thác hợp lí kết hợp với trồng mới,mà nhà nước và người dân đều có lợi, Người dân có thể sống được từ rừng có thể khai thác gỗ một cách hợp pháp, thay vì họ trở thành những lâm tặc, họ được hưởng lợi từ chính rừng núi của họ Nhà nước thì không phải chi trả một lượng tiền lớn cho lực lượng kiểm lâm để bảo vệ rừng mà còn có thể thu được tiền từ thuế tài nguyên đất và rừng. Tuy nhiên việc sở hữu tư nhân đối với rừng ở Việt Nam theo chúng tôi sẽ có những điều đáng lưu ý sau đây: Người dân vì lòng tham có thể sẽ khai thác hết trước khi trồng rừng, vì vậy nhà nước nên kí hợp đồng giao đất giao rừng dài hạn cho người dân. Khi lợi ích của họ đã gắn lâu bền với rừng thì chắc chắn họ sẽ có cách ứng xử với rừng một cách đúng đắn. Hơn nữa khi người dân đã rằng buộc với nhà nước bằng hợp đồng thì nếu khung hình phạt pháp lí của chúng ta cao và nghiêm khắc thì có thể phần nào sẽ hạn chế được tình trạng phá rừng, nhà nước có thể nâng cao quan điểm rừng là tài sản quốc gia và khi nhà nước đã giao quyền sở hữu đất rừng và rừng cho người dân thì người dân có quyền khai thác và trồng rừng theo quy định của nhà nước khi vi phạm quy định thì có thể xử phạt theo pháp luật liên quan đến tài sản quốc gia. Thứ 2 là có thể người dân sẽ không tuân thủ những quy định về kĩ thuật trồng rừng cũng như chăm sóc rừng, trồng không đúng loại cây hay khai thác không đúng thời điểm khi cây rừng còn non, không đảm bảo hiệu quả về mặt sinh học cũng như sinh thái, điều này nếu nhà nước không thanh tra giám sát chặt chẽ thì cũng khó có thể phát hiện và xử lí kịp thời và chỉ biết khi sự việc đã rồi, điều này cũng có thể gây hậu quả đáng tiếc, vì vậy theo quan điểm cá nhân thì nhà nước nên có những đoàn thanh tra thường xuyên liên ngành ngay tại cơ sở (kết hợp giữa bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn với lực lượng kiểm lâm và chính quyền địa phươngPhần thứ nhất này nhà nước đã có chính sách khoán rừng 01 và 02 rồi ) Hơn nữa nhà nước cũng cần hỗ trợ người dân về vốn kĩ thuật, ví dụ như là cung cấp giống và phân bón chất lượng cao,giá ưu đãi + Thứ 2 là đối với đất chưa có rừng, thì đây là điểm mà cần nhà nước đầu tư hơn nhiều so với loại trên. Vì từ đất trống để có thể tạo thành rừng thì cần có một thời gian tương đối dài, mà thường là 5 năm đối với rừng sản xuất và khoảng 10 năm đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, thời gian để khai thác được còn có thể lâu hơn, vì vậy nên có thể nói thời gian là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong công tác trồng rừng, đây cũng là trở ngại lớn nhất đối với chúng ta khi giao đất cho người dân cũng như quyết định đầu tư vốn và kĩ thuật phải dài hạn. Hiện nay, trong khoảng thời gian từ khi trồng rừng đến khi thu hoạch người dân gần như không thu được gì từ rừng (có thể chỉ thu được rất ít như củi hay một số sản phẩm khác), ngoài số tiền ít ỏi mà nhà nước hỗ trợ thì cuộc sống của người dân trong thời gian này là hết sức khó khăn. Làm thế nào để thu hút người dân tham gia vào trồng rừng thì điều quan trọng là nhà nước phải giải quyết được những khó khăn này, theo quan điểm cá nhân chúng tôi xin được đề xuất một vài ý kiến như sau: 1.Các cán bộ kĩ thuật của các sở và phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn nên nghiên cứu và khảo sát các cây trồng ngắn hạn để giúp người dân lấy ngắn nuôi dài, có thể ở các vùng núi thì có thể khảo sát nghiên cứu để đưa các cây trồng có giá trị kinh tế cao vào trồng xen như cây thuốc ( cây ngải cứu, hương nhu, sả, nghệ…) phục vụ cho việc chiết suất các loại thuốc có nguồn gốc thảo dược, cây làm cành (phong lan, cây sanh……)nếu sinh kế của người dân được đảm bảo thì chắc chắn việc giao đât giao rừng cho người dân sẽ hiệu quả, việc trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc sẽ được thành công. 2.Hơn nữa, những người dân nhận đất, nhận rừng, hầu hết là ở vùng sâu vùng xa, trình độ học vấn và các kiến thức khoa học còn rất hạn chế, vì vậy nhà nước cũng như các cơ quan của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ở các địa phương cần có sự giúp đỡ hỗ trợ về kĩ thuật, có thể cung cấp cây giống chất lượng cao miễn phí, có thể hướng dẫn bà con các tiến bộ khoa học kĩ thuật để giúp tăng nhanh năng suât và rút ngắn thời gian thu hoạch cũng như ít tốn sức lao động nhất. Đấy là những ý kiến về việc trồng rừng, còn công tác thu hoạch rừng thì chúng tôi cũng xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau: Theo nguyên tắc thì việc khai thác đối với rừng tự nhiên là chặt tỉa những cây đã đên độ tuổi khai thác, nhưng thực sự những việc này là hết sức khó khăn vì khó có thể nào mà huy động được các phương tiện kĩ thuật vào trong rừng sâu đi qua các cây khác để chặt hạ 1 cây. Vì vậy nên hầu như khi nhà nước cho phép các lâm trường hay các tổ chức cá nhân khai thác rừng thì thường là dao cho 1 khoảnh rừng, và họ cũng sẽ khai thác hết những gì có thể khai thác được, thậm chí còn khai thác cả những vùng xung quanh. Có một vần đề đặt ra ở đây là làm thết nào để khai thác được các cây ở trong rừng sâu đến tuổi không làm ảnh hưởng đến những cây khác, theo tôi thì có thể dung các biện kĩ thuật như dùng máy bay trong khai thác các cây gỗ quí (pơ mu, sưa, lim, mun), có thể đưa ra mô hình như sau, có thể không khả thi trong thực tế nhưng chúng tôi vẫn muôn đề cập đến ở đay, có thể nó sẽ là những gợi ý cho những nhà cơ khí kĩ thuật, để họ sẽ có thể phát kiến ra những máy móc cho việc khia thác gỗ trong tương lai: đó là có thể sẽ dung máy cưa cưa dưới gốc, còn trên ngọn cây từ phần thân cây trở lên có thể dung máy bay đẻ kéo lên, và đưa về nơi sản xuât gỗ, cùng một lúc chúng ta có thể khai thác nhiều cây ( khoảng hơn chục cây) bằng cách như thế này. 3.Hoặc như đối với rừng sản xuất thì chỉ trồng một loại cây nhất định đối với những địa phương cụ thể và hầu nhua là cùng thời điểm vì vậy khi đến độ tuổi khai thác thì sẽ khai thác đồng loạt khai thác đến trắng rừng, đây cũng có thể là nguy cơ gây mất rừng, vì vậy chúng tôi khuyến cáo các cơ quan chức năng là nên có công tác quy hoạch và quản lí hợp lí giữa các địa phương và trong một địa phương, để có thể hạn chế được tình trạng này. 4.Tiếp nữa là công tác bảo vệ rừng, theo chúng tôi được biết thì hiện nay công tác bảo vệ rừng phần lớn là do lực lượng kiểm lâm đảm nhận, mà trên thực tế lực lượng này còn rất yếu và mỏng, nên không thể kiểm soát và canh giữ tuần tra được đến tất cả các mảnh rừng, chưa kể đến một phần các cán bộ kiểm lâm tham ô, nhận hối lộ, cho qua những hành vi phá rừng trái phép. Hơn nữa hoạt động của bọn lâm tặc ngày một liều lĩnh, tinh vi, chúng sẵn sang qua mặt thậm chí đối đầu với lực lượng kiểm lâm. Vì vậy theo chúng tôi để răn đe bọn phá rừng cần có khung hình phạt cao hơn, có thể xử tù những hành vi phá rừng , mở rộng lực lượng kiểm lâm, xây dựng một lực lượng kiểm lâm nhiều về chất , mạnh về lượng Kế đến là cần để mọi tổ chức cá nhân tham gia, toàn xã hội tham gia vào công tác bỏ vệ rừng, như là lập các tổ dân quân bảo vệ rừng…., bảo vệ rừng ngay tại cơ sở, ngay trong mỗi thôn xóm, và sâu rộng với mọi lực lượng tầng lớp xã hội. 5.Tiếp đến là công tác tuyên truyền giáo dục cho mọi người dân trong xã hội, để ai cũng có những nhận thức đúng đắn về rừng, đặc biệt là những người dân sống ở trong khu vực có rừng. Khi họ có những hiểu biết về rừng và có thể sống hợp pháp từ rừng thí có thể tình trạng chặt phá rừng có thể được cải thiện. Công tác tuyên truyền giáo dục cần phải được đổi mới về phương pháp và cách thức để có thể được người dân tiếp thu. Đặc biệt là thành lập các câu lạc bộ ở nhưng đơn vị hành chính sự nghiệp tìm hiểu về rừng, lấy ví dự như ở trường đại học Nông nghiệp Hà nội hiện nay vẫn chưa có một câu lạc bộ nào hoạt động về tìm hiểu rừng, mặc dù không có chuyên ngành nào về lâm học hay lâm nghiệp nhưng các ngành học của sinh viên trường ta rất gần gũi với rừng, như cây trồng, giống, sinh thái môi trường hay quản lí môi trường…..thiết nghĩ đây là việc làm cần thiết và chúng tôi nhóm sinh viên thực hiện đè tài này cũng đang ấp ủ thành lập một câu lạc bộ như thế để có thể có những hiểu biết cụ thể và thực tế hơn về rừng, và chúng tôi qua bài viết này cũng mong nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ các bạn sinh viên, sự giúp đỡ chuyên môn và kiến thức từ các thầy cô giáo đặc biệt là những thầy cô trong bộ môn sinh thái môi trường ( khoa tài nguyên và môi trường) 6.Bên cạnh đó là những chính sách những chương trình mang tính vĩ mô của nhà nước, để hệ thống rừng của Việt Nam mang tính toàn vẹn có hệ thống. về mục tiêu và phương hướng của dự án 661, có thể đánh giá là hết sức tốt đẹp và đúng đắn, nhưng đáng tiếc là khâu thực hiện còn mắc nhiều sai phạm, nên không đạt được những kết quả như mong đợi. nhưng theo cá nhân tôi thì việc xây dựng những chương trình mang tính vĩ mô và dài hơi như thế là cần thiết, và cần tiếp tục xây dựng nhưng chương trình như thế. Và quan trọng là khâu thực hiện cần sát sao, đi đúng với nghị quyếtNói chung mạnh dạn đưa ra các giải pháp và kiến nghị tuy chưa thật xác đáng và giá trị . 3.2.Một số giải pháp của nhà nước Thấy rõ được vai trò của rừng, đặc biệt là trong những năm gần đây nước ta liên tục chịu những hậu quả do biến đổi khi hậu như thiên tai, hạn hán, sạt lở, xsói mòn… những hiện tượng này có nguyên nhân một phần là do diện tích rừng bị giảm mạnh trong những năm đầu đất nước đổi mới, Đảng và nhà nước đã có những chính sách thiết thực trong công tác bảo vệ và trồng rừng, có thế kể đến như dự án 327, luật đóng cửa rừng…. Nhưng có lẽ dự án dài hơn, sâu rộng và mang tính toàn quốc nhất là dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng. Trong bài tiểu luận nhỏ này chúng tôi chỉ xin được đề cập đến dự án này: Chương trình trồng mới 5 triệu hecta rừng Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X, kì họp lần 2 đã có nghị quyết 08/1997/QH10 về dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng, trong đó chỉ rõ:” Thông qua chủ trương đầu tư trồng mới 5 triệu hecta rừng trong thời gian tư1998 đến 2010”. 1, Lí do thành lập dự án: Bảng 1:  Các chức năng thiết yếu của rừng phục vụ con người TT Chức năng của rừng Hiệu quả mong đợi   1 Kinh tế - Cung cấp gỗ , củi, thức ăn, thuốc , nguyên liệu song mây tre nứa, làm giấy, dầu nhựa   2 Xã hội - Công việc làm xoá đói giảm nghèo - Phúc lợi nghỉ dưỡng, giáo dục môi trường, du lịch, nghiên cứu   3 Môi trường - Bảo tồn đa dạng sinh học - Điều chỉnh nguồn nước, cải tạo đất, chống xói mòn thanh lọc không khí,tiếng ồn, cải thiện môi trường sống  Phòng chống thiên tai - Chống sóng biển, bão biển , cát bay - Giảm thiều tác hại của hạn hán, bão lụt thiên tai 4 Hạn chế thay đổi khí hậu - Hấp thụ CO2 không khí, lưu trữ - Ngăn cản trái đất nóng lên,  nước biển dâng cao. a) Lí do sinh thái: _ Việc mất rừng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tự nhiên và xã hội. Xây dựng rừng đặc dụng phòng hộ chủ yếu nhằm cải thiện môi trường sinh thái, bảo vệ phát triển đa dạng sinh học trong điều kiện hiện nay đòi hỏi nỗ lực lớn về tổ chức, nhân lực, quản lý, khoa học công nghệ. Do đó nó phải được xây dựng và tực thi trong khuôn khổ một dự án quốc gia có mục tiêu nội dung rõ ràng với chính sách biện pháp phù hợp và tiến độ thực hiện cụ thể. b) Lí do kinh tế: nhu cầu về lâm sản tăng cao cụ thể là -Nhu cầu về lâm sản làm nguyên liệu giấy -Nhu cầu lâm sản làm nguyên liệu ván nhân tạo -Nhu cầu gỗ trụ mỏ -Nhu cầu gỗ nguyên liệu để chế biến đồ mộc gia dụng và trang trí nội thất -Nhu cầu gỗ xây dựng cơ bản -Nhu cầu đặc sản rừng -Cây công nghiệp -Cây lấy quả c) Lí do xã hội: -Tạo công ăn việc làm cho người dân, gắn quyền lợi và trách nhiệm thiết thực của họ với rừng thì rừng sẽ được bảo vệ và phát triển đúng các quy luật của nền kinh tế thị trườngKhông viết kiểu này . ( 2, Mục tiêu dự án: -Trồng mới 5 triệu hecta rừng cùng với bảo vệ diện tích rừng hiện có để tăng độ che phủ lên 43%. Đảm bảo an ninh môi trường, giảm thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, bảo tồn nguồn gen, tính đa dạng sinh học. -Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiêu việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, định canh định cư…nhất là ở vùng biên giới. -Cung cấp gỗ làm nguyên liệu sản xuất giấy, ván nhân tạo, đáp ứng nhu cầu lâm sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, cùng với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, đưa lâm nghiệp trở thành một nền kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế- xã hội miền núi. ( Nguồn: 3)Nhiệm vụ: -Bảo vệ hiệu quả rừng vốn có. Giao đất giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gắn với định canh định cư, xóa đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết hợp trồng rừng bổ sung và trồng mới. -Trồng rừng: -Trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ đặc dụng: Khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung 1 triệu ha, trồng mới 1 triệu ha gắn liền với định canh định cư. -Trồng 3 triệu ha rưng sản xuất:rừng nguyên liệu công nghiệp giấy, ván nhân tạo, gỗ trụ mỏ…Khoảng 3 triệu ha cây công nghiệp lâu năm và cây lấy quả khoảng 1 triệu ha,đồng thời huy độngcác tổ chức và cá nhân triệt để tận dụng diên tích đất trống để trông cây phân tán. Các giai đoạn: -Giai đoạn 1998 đến 2000: trồng mới 700.000 ha( trong đó 260.000 ha rừng phòng hộ,đặc dụng),khoanh nuôi tái sinh kêt hợp trông bổ sung 350.000 ha -Giai đoạn 2001 đến 2005: trồng mới 1,3 triệu ha( trong đó 350.000 ha rừng phòng hộ,đặc dụng), khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung 650.000 ha. -Giai đoạn 2006 đến 2010: trồng mới 2 triệu ha( trong đó 390.000 hảừng phòng hộ đặc dụng). (Nguồn: 4) Kết quả thực hiện: -Dự án trồng 5 triệu hecta rừng có ý nghĩa lớn về môi trường cũng như tham gia giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Hiện đã có 470.874 hộ gia đình tham gia thực hiện dự án, nhận khoán 2,268 triệu hecta, tham gia trồng 1,31 triệu hecta rừng. Cụ thể là sau 8 năm thực hiện, dự ấn mới chỉ trồng được 1,424 triệu hecta, đạt 28,5% tiến độ trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng chỉ đạt 32,2%, tiến độ trồng rừng nguyên liệu công nghiệp và cây công nghiệp lâu năm, cây lấy quả chỉ đạt 26%. Kết quả đã thực hiện từ 2006- 2008: cả nước đã trồng mới 614.113 ha rừng đạt 61,4% kế hoạch( trong đó rừng phòng hộ đặc dụng là139.171 ha, rừng sản xuất đạt 474.942 ha); khoanh nuôi tái sinh 1.030.000 ha.( Đạt trên 90% kế hoạch khoán bảo vệ rừng 2.300.000 ha) Tính đến 31/12/2008 tổng diện tích rừng của toàn quốc là 13.118.773 ha, trong đó có 10.118.591ha rừng tự nhiên và 2.770.182 ha rừng trồng. Trong 5 năm qua diện tích rừng tăng 1.024.255 ha, bình quân tăng 204.85551 ha/ năm, qua đó độ che phủ rừng tăng từ 36,7%( năm 2004) lên 38,7% ( năm 2008). (Nguồn: Báo Lao Động số 265 ngày 26/9/2009) 5) Hạn chế: _Không bố trí hợp lí, kết hợp với các biện pháp lâm sinh phù hợp từng loại rừng trồng. Dự ấn được tiến hành ở trung du là chính trong khi ở miền núi nơi dân cư khó khăn thì ít được tiến hành hơn. -Diện tích rừng trồng mới tăng nhưng không bằng kế hoạch, chất lượng thấp. -Phân bổ kinh phí chưa phù hợp, còn nhiều sai phạm.Theo quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ là hơn 1500 tỷ nhưng hiện tại dự án mới bố trí 820 tỷ va kế hoạch năm 2009 mới dự kiến bố trí dượcc1000 tỷ đồng. -Thủ tục hành chính còn chậm.Ban chỉ đạo dự án không sát sao đôn đốc nên một số tỉnh không đat chỉ tiêu. - Quản lí nhà nước còn yếu kém 6)Khắc phục: - Ưu tiên chỉ đạo kế hoạch trồng rừng phòng hộ đặc dụng, tập trung đầu tư cho các vùng trọng điểm phòng hộ ven biển, phòng hộ cho các hồ đập. - Đẩy mạnh giao đất giao rừng cho người dân, các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước đẻ phục vụ mục đích kinh tế. - Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cần tiếp tục hướng dẫn về kĩ thuật cho người dân các địa phương 3.3.Phân tích đánh giá dự án Trồng mới 5 triệu hecta rừng Sau khi tìm hiểu về dự án trồng 5 triệu ha rừng chúng tôi có một số đánh giá như sau : Trước hết đây là một dự án quan trọng nhằm ra tăng diện tích rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có, góp phần bảo đảm an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, xóa đói giảm nghèo và đồng thời cung cấp nguyên liệu để sản xuất góp phần phát triển kinh tế xã hội miền núi một số vấn đề chưa khắc phục được trữ lượng và khả năng cung cấp gỗ của rừng còn thấp; tình trạng chặt phá rừng trái phép và nguy cơ cháy rừng ngày càng cao. Thứ hai là trong dự án này đã thực hiện việc giao đất, giao rừng cho người dân, đây là chiến lược hiệu quả và bền vững, vì nó tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho người dân ,cụ thể hiên nay đã có 470.874 họ gia đình tham gia thực hiện dự án , nhận khoán 2.268 triệu ha rừng tham gia trồng 1.31 triệu héc ta rừng . Thứ ba là bước lên kế hoạch: đã có chính sác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số ý kiến về vấn đề trồng, khai thác và bảo vệ rừng trong giai đoạn hiện nay.doc