Các loại thẻ tín dụng, thẻ rút tiền. do.ngân hàng phát hành, ngân hàng cung cấp cho các khách hàng một tài khoản được mã hoá bằng các con số riêng cho từng chủ thể; chủ thẻ có mã số bí mật để sử dụng thẻ khi thanh toán, rút tiền. Để tạo ra thẻ thanh toán giả người phạm tội đã tìm được bí mật của những thẻ thanh toán thật gồm số tài khoản, mã số bí mật của chủ thẻ rồi ghi các dữ liệu đó lên một thẻ trắng, tạo ra một thẻ thanh toán như thẻ thật. Sử dụng các thẻ này, bọn tội phạm có thể thanh toán tại những nơi chấp nhận thẻ (nhà hàng, khách sạn, siêu thị.) hoặc rút tiền tại các máy rút tiền tự động. Việc sử dụng thẻ giả của bọn tội phạm làm cho chủ thẻ thật bị mất số tiền tương ứng (bị ngân hàng trừ tiền trên tài khoản).
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2496 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số ý kiến về việc sửa đổi Bộ luật Hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng bằng lượng hàng và giá trị tiền mua hàng. Số tiền thuế giá trị gia tăng 5% trên hóa đơn được hoàn thuế Phong nhận 3,5% ; để lại công ty 1,5% trả cho người bán tôm không có hóa đơn. Công ty đã tiến hành theo thoả thuận, mục đích mua bán hóa đơn nêu trên là nếu có được 1,5% tiền thuế giá trị gia tăng trợ giá cho các đại lý sẽ làm tăng sức mua hàng của Công ty, tạo được nguồn hàng đưa vào sản xuất nhằm đáp ứng cho các hợp đồng xuất khẩu. Toàn bộ số tiền thuế giá trị gia tăng đã được Công ty lập thủ tục xin khấu trừ hoàn thuế và được hoàn thuế tổng số tiền là 3.606.671.501 đồng.
Khi sự việc bị phát hiện, Cục thức đã thu hồi lại toàn bộ số tiền 3.606.67 1.50 1 đồng là tiền hoàn thuế giá trị gia tăng đối với Công ty.
Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Thị Nguyệt đều bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả".
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 84120061HSST ngày 1 2-5-2006 và Bản án hình sự phúc thẩm số 1426/2006/HSPT ngày 21 -9-2006, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều áp dụng Điều 181 xử phạt các bị cáo Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn, Trương Việt Thù, Trương Vĩnh Thắng, Trần Thị Nguyệt đều về tội "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành các giấy tờ có giá giả".
Khi giám đốc vụ án này, Toà án nhân dân tối cao nhận xét: trong quá trình kinh doanh, vì lợi ích cục bộ của Công ty, Ban giám đốc Công ty gồm: Trần Quang Chiêu, Nguyễn Tín Ngưỡng, Trần Văn Hoàng, Vương Trung Tuấn và một số người khác đã bàn bạc thống nhất dùng thủ đoạn gian dối là mua tôm của các cá nhân, doanh nghiệp không có hóa đơn thuế giá trị gia tăng, sau đó ghép vào hoá đơn thuế giá trị gia tăng của cơ sở kinh doanh Tạ Văn Kha do bị cáo Huỳnh Thanh Phong làm chủ rồi hợp thức hoá chứng từ mua tôm lập hồ sơ quyết toán nhận 5% tiền hoàn thuế giá trị gia tâng và đã chiếm đoạt được 3.606.671.501 đồng của Cục thuế. Số tiền này các bị cáo đã chi cho cơ sở không có hàng, nhưng có xuất hoá đơn thuế giá trị gia tăng 3,5% và chi cho những đại lý bán hàng nhưng không có hoá đơn thuế giá trị gia tăng 15%. Hành vi phạm tội của Huỳnh Thanh Phong, Trần Quang Chiêu và các đồng phạm lập hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng khống đã chiếm đoạt 3.606.671.501 đồng của Cục thuế có dấu hiệu của tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Vì các lẽ trên, tại Quyết định số 2912007/ HS-GĐT ngày 10-12-2007, Hội đồng Thẩm phán đã quyết định hủy cả bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.
Điều đáng lưu ý của vụ án này là trong quá trình giải quyết vụ án, ngay cả khi Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì các ý kiến đều cho rằng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhưng việc định tội danh đều không thống nhất. Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp này, việc định tội danh là "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" hay "tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giả" đều có những điểm không hoàn toàn thoả đáng.
Ví dụ 2: Vụ làm giả cổ phiếu
Lý Hữu Hoàng bàn với Lâm Thu Hương về việc in cổ phiếu giả mang tên V5G (của công ty Việt Toàn Cầu để bán cho khách). Hoàng có nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch, soạn thảo nội dung, thiết kế mẫu cổ phiếu; Hương có trách nhiệm ký tên trên cổ phiếu và một số giấy tờ với tư cách là Tổng Giám đốc. Hoàng rủ Trần Thị Sen tham gia với tư cách là Chủ tịch điều hành và dùng chữ ký của Sen đã được lưu trên máy vi tính để in trên cổ phiếu; Hoàng hợp đồng với Võ Thị Trúc Linh để Linh in cổ phiếu.
Theo như kế hoạch, Hoàng soạn thảo thiết kế mẫu cổ phiếu, thư mời, thiệp mời, cáo bạch và gửi cho Võ Thị Trúc Linh để in ấn. Lâm Thu Hương ký chữ ký mẫu đưa cho Linh để in lên cổ phiếu, trực tiếp ký thư mời Thủ tướng Chính phủ và công văn gửi mời các cơ quan.
Linh đã in 95 quyển cổ phiếu (tổng số tiền theo mệnh giá ghi trên số cổ phiếu này là 95 tỷ Việt Nam Đồng) với 300 thiệp mời và 300 quyển cáo bạch. Trong quá trình giải quyết vụ án này đã có những quan điểm khác nhau khi xác định hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo.
Quan điếm thứ nhất cho rằng: Các bị cáo bằng thủ đoạn gian dối: Giả danh, con dấu, chữ ký của công ty cổ phân Việt Toàn Cầu, phát hành cổ phiếu giả nhằm mục đích bán cổ phiếu giả để chiếm đoạt tiền; các bị cáo chưa chiếm đoạt được tiền vì đang trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội đã bị phát hiện và bắt giữ ngoài dự kiến của người phạm tội. Hành vi của các bị cáo phạm vào tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tổng số tiền tính theo mệnh giá cổ phiếu là 95 tỷ đồng. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt 95 tỷ đồng theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Đây là quan điểm chính thức của các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra, truy tố xét xử các bị cáo.
Quan điểm thứ 2 cho rằng: Các bị cáo không phạm tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Bởi lẽ, tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" có cấu thành vật chất; trong khi đó, toàn bộ số cổ phiếu được xác định là giả và chưa có đối tác cụ thể nào để giao dịch, mua bán; chưa có người bị hại. Việc kết luận các bị cáo chiếm đoạt 95 tỷ đồng là không có cơ sở Hành vi của các bị cáo cấu thành tội "làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo quy định tại Điều 267 Bộ luật hình sự.
Quan điểm thứ 3 cho rằng: Cổ phiếu là loại giấy tờ có giá. Các bị cáo làm tàng trữ, vận chuyển và dự định lưu hành cổ phiếu giả nhằm bán cho người khác. Vậy hành vi của các bị cáo phạm vào tội "làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả theo quy định tại Điều 281 Bộ luật hình sự.
Nghiên cứu vụ án nêu trên, chúng tôi có một số ý kiến như sau : cổ phiếu là loại giấy tờ có giá; mệnh giá cổ phiếu là 10.000 đồng nhưng giá trị giao dịch có thể khác 10.000 đồng. Trên thực tế có những cổ phiếu có giá tới 700.000 đồng, có cổ phiếu giá chỉ 8.000 đồng. Trong vì việc này, các bị cáo có hành vi làm giả con dấu tài liệu để nhằm làm giả giấy tờ có giá; mục đích cuối cùng là bán cổ phiếu và chiếm đoạt tiền của người khác; việc làm giả con dấu, tài liệu giấy tờ có giá giả chỉ là phương thức đã chiếm đoạt tiền của người khác. Tuy nhiên., các bị cáo không xác định cụ thể số tiền định chiếm đoạt là bao nhiêu; và thực tế cũng không thề xác định là có thể bán được bao nhiêu cổ phiếu, tiền của mỗi cổ phiếu là bao nhiêu. Bởi việc bán cổ phiếu dù là cổ phiếu thật cũng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thị trường biến động, doanh nghiệp phát hành không thể dự liệu hết các khả năng, rủi ro có thể xảy ra.
Theo chúng tôi, hành vi của Lý Hữu Hoàng, Lâm Thu Hương và đồng bọn là rất nguy hiểm cho xã hội, nhưng cả 3 ý kiến nêu trên đều có phần gượng ép hoặc chưa phản ánh hết tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Vì vậy, hiện nay khi thị trường chứng khoán đã được thành lập và có những bước phát triển nhất định, pháp luật cần cá thể hoá trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này bằng một quy định cụ thể dành riêng cho những hành vi sản xuất, tàng trữ, lưu hành cổ phiếu giả.
Ví dụ 3 : Về hành vi lắp đặt, sử dụng trái phép thiết bị viễn thông
Trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một số vụ án liên quan đến việc lắp đặt, sử dụng trái phép thiết bị viễn thông; thường gặp là các hành vi như sau:
- Ký hợp đồng thuê riêng kênh viễn thông quốc tế của Công ty viễn thông quốc tế, ứng đụng dịch vụ Intemet kết nối điện thoại để liên lạc giữa mạng nội bộ thuê kênh riêng ở Việt Nam và mạng nội bộ thuê kênh riêng ở nước ngoài, nhưng đã kết nối với mạng điện thoại công cộng để kinh doanh, thu tiền.
- Lắp đặt trạm mặt đất thông tin vệ tinh và sử dụng tần số vô tuyến điện (không có giấy phép) kết nối với điện thoại cố định để gọi điện thoại quốc tế nhưng chỉ trả tiền thuê bao trong nước.
- Lợi dụng sự chồng lấn sóng viễn thông quốc tế tại các khu vực giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc - Liên bang Nga, các đối tượng đã đăng ký dùng thuê bao của Việt Nam (máy mẹ) sau đó dùng các máy con đưa sang Trung Quốc để chuyển các cuộc gọi từ Nga về Việt Nam.
Trong các trường hợp nêu trên, người sử dụng đã không phải trả tiền cước, trốn được một số tiền cước phí điện thoại quốc tế rất lớn.
Căn cứ vào dấu hiệu lén lút lắp đặt thiết bị viễn thông, kết nối với mạng điện thoại công cộng để gọi điện thoại quốc tế và dấu hiệu tránh việc phải trả một số tiền lớn cước phí điện thoại, nên các cơ quan tiến hành tố tụng thường xác định đây là các vụ trộm cắp cước phí viễn thông; các bị cáo bị khởi tố truy tố xét xử về tội "trộm cắp tài sản" theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự.
Trong giới nghiên cứu khoa học, nhiều học giả cũng đồng ý với quan điểm đây là tội "trộm cắp tài sản". Tuy nhiên, trong những vụ án cụ thể cũng có một số ý kiến cho rằng đây là tội "kinh doanh trái phép" theo Điều 159; hoặc phạm tội "vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên" theo Điều 172 Bộ luật hình sự.
Theo chúng tôi, các hành vi lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị viễn thông là nguy hiểm cho xã hội, cần xử lý. Tuy nhiên, nếu kết luận các bị cáo phạm vào một trong số 3 tội danh trên đều chưa thực sự hoàn toàn chính xác; chưa nêu bật được tính chất đặc trưng của loại hành vi phạm tội này. Vì vậy, Bộ luật hình sự cần có 1 Điều luật riêng để điều chỉnh những hành vi phạm tội lắp đặt sử dụng trái phép thiết bị viễn thông.
Ví dụ 4: Về trường hợp sản xuất, sử dụng thẻ rút tiền, thẻ thanh toán giả
Trong thời gian qua, trên thực tế đã xuất hiện nhiều trường hợp sử dụng thẻ thanh toán; đặc biệt là thẻ tín dụng đa năng giả để thanh toán khi mua hàng, sử dụng dịch vụ, rút tiền tại các máy trả tiền tự động...
Các loại thẻ tín dụng, thẻ rút tiền... do.ngân hàng phát hành, ngân hàng cung cấp cho các khách hàng một tài khoản được mã hoá bằng các con số riêng cho từng chủ thể; chủ thẻ có mã số bí mật để sử dụng thẻ khi thanh toán, rút tiền. Để tạo ra thẻ thanh toán giả người phạm tội đã tìm được bí mật của những thẻ thanh toán thật gồm số tài khoản, mã số bí mật của chủ thẻ rồi ghi các dữ liệu đó lên một thẻ trắng, tạo ra một thẻ thanh toán như thẻ thật. Sử dụng các thẻ này, bọn tội phạm có thể thanh toán tại những nơi chấp nhận thẻ (nhà hàng, khách sạn, siêu thị...) hoặc rút tiền tại các máy rút tiền tự động. Việc sử dụng thẻ giả của bọn tội phạm làm cho chủ thẻ thật bị mất số tiền tương ứng (bị ngân hàng trừ tiền trên tài khoản).
Khi xử lý các vụ án liên quan đến hành vi làm, sử dụng thẻ thanh toán giả, các cơ quan tiến hành tố tụng còn có quan điểm rất khác nhau về tội danh, điều luật cần áp dụng đối với người phạm tội. Thường gặp là các quan điểm sau:
Những người theo quan điểm thứ nhất cho rằng: người phạm tội rút tiền tại các máy rút tiền tự động có tính lén lút, chủ thẻ thực không biết, nên hành vi cấu thành tội "trộm cắp tài sản".
Những người theo quan điểm thứ hai cho rằng: người phạm tội dùng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ là "lừa đảo chiếm đoạt tài sản";
Những.người theo quán điểm thứ ba cho rằng: người phạm tội làm giả thẻ thanh toán, sử dụng thẻ giả nên cấu thành tội "sản xuất, tàng trữ, lưu hành giấy tờ có giá giả".
Phân tích hành vi phạm tội và các dấu hiệu đặc trưng của 3 loại tội phạm nêu trên cho thấy các ý kiến đều chưa hoàn toàn thoả mãn, bởi nếu trong từng trường hợp xảy tra trên thực tế có thể không định tội danh phù hợp, trong khi đó người làm thẻ sẵn sàng chấp nhận mọi phương án để có thể lấy được tiền, hàng hoá... Ví dụ, không thể định tội "trộm cắp tài sản" trong trường hợp một người làm thẻ giả và đem tặng, bán cho người khác hoặc dùng để thanh toán; không thể định tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" nếu người phạm tội dùng thẻ rút tiền tại các máy rút tiền tự đồng; người là chủ thực sự hoàn toàn không biết việc mình bị mất tiền... Theo chúng tôi, đây là. loại tội phạm có tính đặc trưng, được ứng dụng công nghệ cao, cần được quy định bằng điều luật cụ thể riêng biệt.
Ví dụ 5: Về hành vi nhắn tin trên Intemet tới các số điện thoại di động để rút tiền từ tài khoản của máy điện thoại di động
Lê Duy Phương và Lê Thanh Hoàng có hành vi giả mạo tin nhắn trên mạng Intemet gửi đến các số điện thoại di động với nội dung: "Chúc mừng ông bà đã trúng thưởng 50.000 đồng từ quỹ vì người nghèo, để xác minh tài khoản ông bà soạn tin nhắn NAPTK998-NAPM84VN-TK8730- VMS084 gửi đến 8730"; "Chúc mừng ông bà đã trúng tủ rỗng 50.000 đồng từ quỹ vì người nghèo, để nhận tiền ông bà soạn tin nhắn NAPTK084- NAPTKVNN-NAPVNN84 gửi đến 8730";
Nhiều người nhận được tin nhắn có nội dung như trên, tin tưởng là mình trúng thưởng nên đã soạn tin theo hướng dẫn gửi đến tổng đài 8739; mỗi tin nhắn bị trừ cước phí là 15.000 đồng. Số tiền đó được tổng đài 8310 chuyển đến tài khoản TK889, SMS084, TKVNN, VNN84 của Phương và Hoàng trên mạng Intemet. Phương và Hoàng đã dùng số tiền đó để chơi trò trên website của VTC game online.
Cơ quan Công an đã bắt giữ Lê Duy Phương và Lê Thanh Hoàng. Trong quá trình điều tra xác định được Phương đã gửi đi 671 tin nhắn và nhận được 400 tin, chiếm đoạt được 6.000.000 đồng; Hoàng gửi đi 418 tin và nhận được 180 tin, chiếm đoạt được 2.700.000 đồng. Xác định tại đài truyền hình kỹ thuật số VTC thu thập được danh sách 580 số điền thoại di động và 8.700.000 đồng của những người bị Phương và Hoàng lừa đảo chiếm đoạt nhưng không xác định được nhân thân, lý lịch của từng người bị hại; chỉ nhận được 5 đơn tố cáo của những người bị hại.
Khi giải quyết vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử Lê Duy Phương và Vương Thanh Hoàng về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng trong vụ án này không có người bị hại nên không xử về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Nghiên cứu vụ án này, chúng tôi xét thấy, việc xác định Lê Duy Phương và Vương Thanh Hoàng phạm tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" là không sai so với quy định của Bộ luật hình sự, tuy nhiên việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong tường hợp này chưa phản ánh hết đặc tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đó là người phạm tội đã có hành vi lừa dối rất nhiều người, số người nhận được tin nhắn lớn hơn số thực tế nhắn tin trả lời mong muốn của bị cáo nhận được số tiền lớn hơn số thực tế họ nhận được vì mỗi tin nhắn gửi đi là họ đều mong muốn nhưng không phải tất cả những người nhận được tin nhắn đều trả lời theo yêu cầu. Hơn nữa, sau khi nhắn tin xong, hành vi nguy hiểm của bị cáo đã chấm dứt, việc những người nhận được có trả lời hay không hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát của bị cáo; giữa bị cáo và người bị hại không hề quen biết...
Vì vậy, pháp luật hình sự cần có một quy định cụ thể về hành vi tạo ra những thông tin giả trên mạng intemet, điện thoại di động nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Bên cạnh những hành vi đã bị xử lý về hình sự nêu trên (dù chưa thực sự hoàn toàn chính xác) còn có những hành vi nguy hiểm nhưng chưa bị xử lý bởi Bộ luật hình sự chưa tội phạm hoá hành vi này; hoặc chưa có quy định cụ thể như hành vi mua bán đàn ông; mua bán nội tạng người vì mục đích lợi nhuận; mua bán rác thải y tế để tái chế không đảm bảo chất lượng... Theo chúng tôi, đây là vấn đề cần sớm được cụ thể hoá thành những quy định trong Bộ luật hình sự làm căn cứ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự những người có hành vi vi phạm.
Song song với việc hình sự hoá các hành vi nguy hiểm mới xuất hiện, thì cũng cần loại bỏ, phi hình sự hoá một số tội phạm nhất định. Những hành vi này đã được xem là tình trạng bệnh tật (hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý) hoặc có vi phạm pháp luật nhưng không phải là hành vi nguy hiểm có tính chất của tội phạm hình sự; hoặc đã được cấu thành trong những loại tội phạm khác, đó là tội "lừa dối khách hàng" điều 1 62). Điều này quy định như sau: "Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo đếm, tính gian, đánh tráo các loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được : xoá án.tích mà còn vi phạm thì bị phạt...". Theo chúng tôi, hành vi mà điều luật mô tả nếu nhỏ nhặt thì chỉ là những vi phạm hành chính, nếu nghiêm trọng, có tính chiếm đoạt thì có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khi đó cần đưa về tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản" có mức hình phạt cao hơn mới đảm bảo tính công bằng của pháp luật.
3. Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự
Với tư cách là một công cụ sắc bén để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể và của cá nhân, pháp luật hình sự là một nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên., do ban hành từ năm 1999, nên Bộ luật hình sự chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 081NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 491NQ-TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có. những chủ trương đặc biệt đáng chú ý như: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế".
Có thể nói rằng quan điểm của Đảng về cần thiết phải sửa đổi Bộ luật hình sự đã thể hiện rõ tổng hợp tình hình của các yêu cầu phát triển đất nước, các mối quan hệ đối nội và đối ngoại, các xu thế quốc tế và nhằm bảo vệ tết hơn nữa các quyền con người. Trên quan điểm này, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự là một yêu cầu tất yếu. Cần phải hình sự hoá những hành vi vi phạm pháp luật mới xuất hiện nhưng có tính nguy hiểm cao, phi hình sự những hành vi không còn tính nguy hiểm, không đến mức bị coi là tội phạm hình sự để xử lý vi phạm hành chính hoặc bằng biện pháp khác. Việc áp dụng hình phạt tử hình cần hạn chế, chỉ áp dụng trong những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, thực hiện tội phạm một cách dã man, tàn bạo, không còn khả năng cải tạo trở thành người tết; là mối đe doạ cho cộng động xã hội. Theo đó, nên loại bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội về kinh tế, những tội mà nguyên nhân xảy ra có phân bởi sự yếu kém trong quản lý nhà nước, các quy định pháp luật chưa rõ ràng, sự non kém của những người liên quan trong vụ án. Đồng thời nâng cao mức thiệt hại tối thiểu bị coi là tội phạm đối với những tội phạm có yếu tố định lượng trong cấu thành cơ bản, cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội; các hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng mức thiệt hại nhỏ thì xử lý vi phạm hành chính hoặc biện pháp khác, đảm bảo không hình sự hoá hầu hết các hành vi vi phạm pháp luật; mở rộng việc áp dụng hình phạt tiền nên phải sửa đổi điều luật quy định chung về hình phạt tiền và quy định thêm hình phạt tiền trong những điều luật về các tội phạm cụ thể để làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
II. NHỮNG VƯỚNG MẮC KHI ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Mặc dù được xây dựng trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các thành tựu của Bộ luật hình sự năm 1985 và tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong suốt quá trình từ khi lập nước đến khi xây dựng Bộ luật này, nhưng Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế về kỹ thuật lập pháp, nhiều quy định của Bộ luật hình sự còn quá khái quát, một số cấu thành tội phạm dễ nhầm lẫn, quy định về tội phạm cụ thể chưa phù hợp với quy định trong phàn chung của Bộ luật; chưa phù hợp giữa hình phạt và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội trong mối quan hệ so sánh giữa các hành.. vi; chưa đồng bộ theo lôgic chung của Bộ luật Hình sự; hoặc chưa phù hợp với quy định của các ngành luật khác có liên quan;... dẫn đến khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng, không thống nhất quan điểm trong việc xác định hành vi có cấu thành tội phạm hay không; nếu có thì phạm tội theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự.
1. Những quy định của pháp luật còn quá khái quát
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự, chúng tôi nhận thấy các khái niệm định tính được dùng làm căn cứ xác định một hành vi là tội phạm hoặc để xác định mức độ nghiêm trọng thuộc hậu quả của tội phạm, như: phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng; hàng phạm pháp có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn... khá phổ biến trong các điều luật như: Điều 86. Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội; Điều 87. Tội phá hoại chính sách đoàn kết; Điều 120. Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; Điều 127. Tội làm sai lệch kết quả bầu cử; Điều 131. Tội xâm phạm quyền tác giả; Điều 134. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Điều 143. Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Điều 151. Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; Điều 154. Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Điều 155. Tội sản xuất tàng trữ, vận chuyển buôn bán hàng cấm và các tội xâm phạm môi trường...
Trong số những điều luật nói trên, chỉ có một số điều đã được các cơ quan hữu quan hướng dẫn thi hành bằng việc quy định cụ thể, còn lại nhiều điều luật vẫn chưa được hướng dẫn, khiến cho quá trình giải quyết vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn, có trường hợp cả 3 cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án) phải tổ chức họp nhiều lần để thống nhất xác định tội danh, khung hình phạt đối với bị can, bị cáo thậm chí có trường hợp giữa các cơ quan tố tụng có những cách hiểu khác nhau về khung hình phạt cần áp dụng, thậm chí có những vụ một trong số các cơ quan cho rằng hành vi chưa cấu thành tội phạm...
Ví dụ l: Vụ mua bán pháo nổ Nguyễn Thế Văn bị Công an bắt quả tang vận chuyển 7 kg pháo nổ đi bán. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã khởi tố, truy tố Nguyễn Thế Văn về tội "buôn bán hàng cấm" theo quy định tại khoản 1 Điều 1 55 Bộ luật Hình sự.
Vụ án đã được chuyển sang Toà án để chuẩn bị xét xử. Nhưng sau đó, Viện Kiểm sát cấp trên lại có ý kiến cho rằng theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999 thì hành vi vận chuyển hàng cấm chỉ bị coi là tội phạm nếu hàng phạm pháp có số lượng lớn, mà quy định này chưa có hướng dẫn, nên cần áp dụng theo Thông tư liên ngành số 01/1996/TTLN ngày 25 -01 - 1996 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Nội vụ và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý hành vi sản xuất vận chuyển, mua bán và đốt pháo nổ được quy định tại các Điều 96, 97 và 166 của Bộ luật hình sự năm 1985. Theo đó, hàng phạm pháp có số lượng lớn phải từ 30 kg trở lên; số lượng 7 kg không thuộc trường hợp hàng có số lượng lớn. Vậy hành vi của Nguyễn Thế Văn chỉ là vi phạm hành chính, chưa đến mức bị coi là tội phạm. Vì vậy, Viện Kiểm sát đã rút cáo trạng và Toà án đình chỉ vụ án.
Tuy nhiên, hiện nay, liên ngành các cơ quan Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp đang soạn thảo Thông tư hướng dẫn về xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm liên quan đến pháo. Theo dự thảo, thì khối lượng pháo từ 1 kg trở lên đã bị xử lý về hình sự.
Ví dụ 2: Sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng
Công ty trách nhiệm hữu hạn Hồng Thọ do Võ Đình Thọ làm giám đốc được Chi cục thuế bán cho 2 quyển hoá đơn gồm 100 liên. Võ Đình Thọ không sử dụng hoá đơn phục vụ kinh doanh mà đã bán khống cho 4 1 tổ chức, cá nhân 80 liên với nội dung là công ty Hồng Thọ bán gỗ cho các đơn vị với tổng số tiền ghi trên các hoá đơn là 3.303.057.000 đồng, thu lợi bất chính số tiền thuế giá trị gia tăng là 330.305.000 đồng tiền các đối tượng mua hoá đơn trả cho Thọ. Trong số 80 hoá đơn đã bán, Thọ thông qua Võ Đình Liêm để bán 15 hoá đơn với doanh số là 529.971.000 đồng, tiền thuế giá trị giá tăng là 52.996.000 đồng, số tiền này Liêm đưa hết cho Thọ.
Viện Kiểm sát truy tố Võ Đình Thọ và Võ Đình Liêm về tội "lưu hành giấy tờ có giá giả" theo khoản 1 Điều 181 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có ý kiến cho rằng: đối với Võ Đình Thọ cần phải truy tố, xét xử về tội "lưu hành giấy tờ có giá giả" theo khoản 2 Điều 181 Bộ luật Hình sự thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bởi vì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 và 3 Điều 1 8 1; nhưng căn cứ vào số lượng hoá đơn Thọ đã bán (80), số tiền thu lợi bất chính (330.305.000 đồng) và đối chiếu, so sánh với các điều luật và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số ý kiến về việc sửa đổi Bộ luật Hình sự.doc