Tiểu luận Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa

Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP cũng quy định chi tiết việc thực hiện chế độ uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH của tổ chức, cá nhân khác cho thành viên kinh doanh qua SGDHH theo hợp đồng uỷ thác bằng văn bản. Để có thể yêu cầu thành viên kinh doanh qua SGDHH thực hiện các yêu cầu mua, bán hợp đồng của mình, khách hàng phải có nghĩa vụ kí quỹ theo quy định, mức tiền kí quỹ do các bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn 5% trị giá lệnh uỷ thác giao dịch. Kết quả giao dịch được thành viên kinh doanh qua SGDHH thông báo theo quy định của pháp luật.

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12822 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái quát về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch 1. Khái niệm mua bán hàng hoa qua sở giao dịch Điều 63- Luật thương mại 2005 quy định: “ Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo nhưng tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai” Từ khái niệm trên có thể thấy việc mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa có những dấu hiệu riêng biệt so với mua bán hàng hóa thông thường. Thứ nhất, trong mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch, Sở giao dịch hàng hóa có tư cách là trung gian giữa các bên trong giao dịch. Thứ hai, đối tượng giao dịch là hàng hóa có cung cầu lớn và thường xuyên có sự biến động về giá trên trường Thứ ba, việc mua bán hàng hóa được thực hiện theo các tiêu chuẩn nhất định do Sở giao dịch hàng hóa quy định, gồm các tiêu chuẩn về loại hàng, số lượng, phẩm cấp hàng, giá cả, thời hạn giao kết hợp đồng và thời hạn giao hàng tại một thời điểm trong tương lai. Thứ tư, mục đích của mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là tìm kiếm lợi nhuận do sự chênh lệch giá giữa lúc ký kết và lúc giao hàng và bảo hiểm rủi ro về giá. 2. Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch cũng là một hoạt động thương mại nên nó mang đầy đủ các đặc điểm như những hoạt động thương mại khác. Bên cạnh đó, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là một hoạt động thương mại đặc thù nên có những đặc điểm rieng mà các hoạt động thương mại khác không có. 2.1. Chủ thể mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa Cũng giống như hoạt động mua bán hàng hóa thông thương, chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cũng gồm bên bán và bên mua. Bên cạnh đó còn có một số chủ thể đặc biệt mà hoạt động mua bán hàng hóa thông thường không có. Trong thị trường hàng hóa tương lai có tổ chức, có ba chủ thể chính tham gia là các nhà giao dịch, nhà môi giới và khách hàng. Nhà giao dịch là những thành viên tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa kỳ hạn, quyền chọn cho chính bản thân họ, giao dịch từ chính tài khoản của họ. Những nhà giao dịch tham gia thị trường hàng hóa tương lai với mục đích đầu cơ hoặc tự bảo hiểm rủi ro cho mình và thường là những nhà kinh doanh hay nhà sản xuất lớn, am hiểu về mua bán kỳ hạn, quyền chọn. Nhà môi giới là một loại thương nhân ở sở giao dịch hàng hóa, có thể là nhà buôn độc lập hoặc đại diện cho công ty môi giới lớn. Họ thực hiện các giao dịch cho những người không phải thành viên của sở giao dịch để kiếm tiền bằng cách thu một khoản tiền gọi là phí hoa hồng của người mua hay bán các hợp đồng ký hạn hoặc quyền chọn khi họ tham gia vào mua bán hàng hóa ở sở giao dịch hàng hóa. Khách hàng là người bán hoặc người mua tham gia vào giao dịch hàng hóa tương lai thông qua nhà môi giới. Khách hàng ủy thác cho nhà môi giới thực hiện việc mua bán tại sở giao dịch trên cơ sở thiết lập một hợp đồng môi giới. Sau đó người môi giới sẽ bảo đảm với sở giao dịch về việc thực hiện hợp đồng được ký với khách hàng bằng việc chính nhà môi giới là người ký hợp đồng. Bên cạnh ba chủ thể chính nêu trên, trong thị trường mua bán kỳ hạn tại sở giao dịch còn có một số chủ thể khác. Đó là những nhà tư vấn thực hiện việc phân tích thị trường, lập báo cáo, co ý kiến tư vấn hoặc đưa ra các đề xuất về việc mua bán hợp đồng kỳ hạn cho một người nào đó và thu phí dịch vụ. Các đại lý giao dịch được cấp phép làm đại lý cho công ty môi giới hàng hóa giao sau trong việc môi giới các lệnh mua bán từ khách hàng… 2.2. Đối tượng mua bán qua sở giao dịch hàng hóa Hàng hóa mua bán qua sở giao dịch hàng hóa là những hàng hóa mang những đặc điểm riêng biệt. Điều đó thể hiện ở những đặc điểm sau: - Những hàng hóa có sự biến động lớn về giá trong thị trường giao ngay. Sự tiềm ẩn nguy cơ biến động lớn về giá của các loại hàng hóa này buộc các nhà sản xuất và nhà chế biến phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ nếu biến động giá theo một hướng nào đó. Điều này thúc đẩy họ tham gia thị trường kì hạn và quyền chọn để tự bảo hiểm. Tức là chuyển rủi ro về giá sang các nhà nắm rủi ro chuyên nghiệp và cho phép có một cơ chế giá phục hồi. - Hàng hóa đưa vào mua bán ở sở giao dịch hàng hóa còn là loại hàng hóa thu hút được khối lượng lớn các bên tham gia và không có bên nào chi phối được thị trường. Vì nếu giá cả chỉ do một người ấn định thì không có sự biến động tự phát về giá, do đó cũng không còn nhu cầu một thị trường về các hợp đồng kỳ hạn hoặc quyền chọn. Theo quy định của nghị định 158/2006/NĐ-CP, danh mục hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa sẽ do Bộ trưởng bộ thương mại công bố trong từng thời kỳ. 2.3. Hình thức của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Theo điều 64 Luật thương mại 2005 thì hợp đồng này gồm hai loại: Hợp đồng kỳ hạn: là thỏa thuận theo đó bên bán cam kết giao, bên mua cam kết nhận hàng hóa tại một thời điểm hoặc một thời hạn trong tương lai theo hợp đồng. Trong hợp đồng này nếu các bên không có thỏa thuận gì khác thì người bán buộc phải giao hàng theo hợp đồng, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên mua có thể thanh toán bằng tiền và không nhận hàng thì bên mua phải thanh toán cho bên bán một khoản tiền bằng khoản chênh lệch giữa giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện . Nếu các bên thỏa thuận bên bán có thể thanh toán bằng tiền và không giao hàng thì bên bán phải thanh toán cho bên mua một khoản tiền bằng khoản chênh lệch giữa giá thị trường do sở giao dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và giá thỏa thuận. Hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước (giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó. Như vậy, bên mua quyền hoàn toàn có quyền chủ động trong việc mua hoặc bán hàng hóa và việc quyết định thực hiện quyền chọn sẽ tùy thuộc vào biến động giá cả trên thị trường của hàng hóa đó tại thời điểm thực hiện hợp đồng. 2.4. Phương thức giao dịch Việc mua bán hàng hóa được thực hiện tại sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa là tổ chức được thành lập để cung cấp các tiện ích cho việc tiến hành các giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và một số giao dịch khác. Về mô hình, sở giao dịch hàng hóa thường được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp ở các nước phát triển và việc thành lập các sở giao dịch ở các nước này hoàn toàn theo nhu cầu thị trường. Trong khi đó, ở một số nước đang phát triển (Trung Quốc, Thái Lan), sở giao dịch thường là một tổ chức có tư cách pháp nhân được quản lý điều hành bởi Nhà nước. Việc mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, các chủ thể được sở giao dịch cung cấp nhiều tiện ích như: - Cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể (thường gọi là sàn giao dịch hay khung trường), tại đây hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn được các thành viên của sở mua và bán. - Đề ra các quy tắc, quy chế để điều hành hoạt động kinh doanh hàng hóa giao sau diễn ra tại sở và giám sát, thực thi các quy tắc, quy chế đó. - Thúc đẩy hoạt động mua bán kỳ hạn và quyền chọn của các thành viên. Bản thân sở không tham gia vào việc mua bán kỳ hạn mà chỉ cung cấp những tiện nghi cho các bên tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa giao sau tại sở. II. Pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa 1. Tổ chức và hoạt động của sở giao dịch hàng hóa 1.1. Địa vị pháp lý của sở giao dịch hàng hóa Sở giao dịch hàng hóa là pháp nhân được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định của Nghị định 158/2006/NĐ-CP. 1.2. Điều kiện thành lập sở giao dịch hàng hóa Sở Giao dịch hàng hóa được thành lập nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: - Vốn pháp định là một trăm năm mươi tỷ đồng trở lên; - Điều lệ hoạt động phù hợp với quy định của Nghị định này; - Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên và có thời gian công tác trong lĩnh vực kinh tế - tài chính ít nhất là 05 năm; có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp; - Các điều kiện khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp; Như vậy, sở giao dịch hàng hóa chỉ được thành lập nếu đáp ứng các điều kiện trên, trong đó điều lệ hoạt động của sở giao dịch phải phản ánh được tư cách thành viên sở giao dịch, loại hàng hoá, tiêu chuẩn, đơn vị đo lường của hàng hoá giao dịch, mẫu hợp đồng và lệnh giao dịch, hạn mức giao dịch, kí quỹ, phí giao dịch, phương thức giao dịch, chế độ thông tin, báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính, quản lí rủi ro, giải quyết tranh chấp. 1.3. Quyền và trách nhiệm của sở giao dịch hàng hóa Quyền và trách nhiệm của sở giao dịch hàng hóa được quy định khá cụ thể trong các điều 15,16 Nghị định 158/2006/NĐ-CP. Sở giao dịch có quyền lựa chọn hàng hoá cơ sở đưa vào danh mục giao dịch tại sở; tổ chức điều hành và quản lí hoạt động giao dịch qua sở; chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên của các công ty có “chân” tại sở giao dịch; yêu cầu các thành viên kí quỹ để thực hiện giao dịch; thu các loại phí theo quy định; ban hành quy chế niêm yết, công bố thông tin; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch; yêu cầu thành viên áp dụng biện pháp quản lí rủi ro; làm trung gian giải quyết tranh chấp theo yêu cầu... Đồng thời, sở giao dịch hàng hóa cũng có nghĩa vụ tổ chức giao dịch một cách vô tư, công bằng và hiệu quả; công bố các giấy tờ chứng minh tư cách như giấy phép thành lập, điều lệ hoạt động, mẫu hợp đồng, mẫu lệnh giao dịch... của sở giao dịch; thực hiện chế độ báo cáo... và là chủ thể chịu trách nhiệm đến cùng về các giao dịch. 1.4. Thành viên của sở giao dịch hàng hóa Thành viên của sở giao dịch hàng hóa bao gồm: Thứ nhất, thương nhân môi giới. Theo Điều 19 Nghị định 158, thành viên môi giới phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: “Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định là 5 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hoá”. Thương nhân môi giới thực hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hóa. Họ có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hóa mà họ tham gia. Thứ hai, thương nhân kinh doanh thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hóa. Điều kiện trở thành thành viên kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa bao gồm: “Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; vốn pháp định 75 tỉ đồng trở lên; giám đốc hoặc tổng giám đốc phải có bằng đại học, cử nhân trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lí doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp; các điều kiện khác theo quy định của Điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hoá” (Điều 21 Nghị định 158). Họ có quyền thực hiện các hoạt động tự doanh hoặc nhận uỷ thác mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hóa cho khách hàng; yêu cầu khách hàng kí quỹ để thực hiện giao dịch... 2.Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa 2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa Hợp đồng được sử dụng làm công cụ để giao dịch theo quy định của Luật Thương mại là “hợp đồng kì hạn” và “hợp đồng quyền chọn” và là loại hợp đồng song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 Luật thương mại 2005: “Hợp đồng kì hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, theo cách định nghĩa truyền thống, hợp đồng kì hạn giống như những hợp đồng mua bán thông thường, đó là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể giao kết để chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua và đổi lấy khoản tiền là giá trị hàng hoá. Tuy nhiên, khác với mua bán thông thường, việc kí kết hợp đồng kì hạn không phải là kí kết trực tiếp giữa người bán và người mua mà được thực hiện thông qua sở giao dịch hàng hóa với tư cách là cơ quan trung gian. Khi một người muốn mua hàng hoá qua sở giao dịch, người đó sẽ phải tuân thủ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cũng như quy tắc, điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hóa đó. Cụ thể, người này sẽ phải kí quỹ thông qua thành viên kinh doanh của sở giao dịch để đảm bảo giao dịch. Mức kí quỹ (hay còn gọi là tiền bảo chứng, bao gồm tiền bảo chứng ban đầu và tiền bảo chứng duy trì) do từng sở giao dịch quy định. Hợp đồng kì hạn chứa đựng yếu tố rủi ro cao hơn so với hợp đồng mua bán thông thường nhưng bên mua và bên bán nhiều khi lại tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở sự biến động đó của thị trường. Trên cơ sở hợp đồng kì hạn đã giao kết, hai bên có thể kí tiếp hợp đồng quyền chọn. Hợp đồng quyền chọn bao gồm hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua. Hợp đồng về quyền chọn bán hoặc quyền chọn mua là thoả thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hàng hoá đó (khoản 3 Điều 64 Luật thương mại). Hợp đồng quyền chọn thực chất là sự tự bảo hiểm cho chính hợp đồng kì hạn mà hai bên đã kí kết; theo đó cho phép dồn nghĩa vụ về một bên (bên bán quyền). Khi giá cả hàng hoá trên thị trường tăng hoặc giảm so với giá thoả thuận trong hợp đồng, bên mua quyền có quyền thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kì hạn. Bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải sẵn sàng đón nhận hàng hoá nếu bên mua quyền thực hiện quyền giao hàng, mặc dù có thể hợp đồng đó không còn có lợi cho mình. Bù lại, bên bán quyền chắc chắn đã được hưởng một khoản tiền (tiền bán quyền) chứ không phải là lợi nhuận mà hợp đồng mang lại. Điều này đòi hỏi bên bán quyền trong hợp đồng quyền chọn phải là những chủ thể có tiềm lực kinh tế mạnh để sẵn sàng chấp nhận rủi ro đồng thời vẫn thu được lợi nhuận. 2.2. Loại hàng hóa được phép giao dịch Danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua SGDHH đã được Bộ Công Thương xây dựng tại Quyết định 4361/QĐ-BCT ngày 18/8/2010. Theo đó, có 8 loại hàng được phép giao dịch là: cà phê nhân, chưa rang, chưa khử chất cafein; Mủ cao su tự nhiên, đã hoặc chưa tiền lưu hóa; Cao su tự nhiên ở dạng tấm cao su xông khói; Cao su tự nhiên đã được định chuẩn kỹ thuật; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600 mm trở lên, được cán nóng, chưa phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên, cán nguội, chưa dát phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên đã phủ, mạ hoặc tráng; Các sản phẩm thép không hợp kim ở dạng thanh và que khác, mới chỉ qua rèn, cán nóng, kéo nóng hoặc ép đùn nóng, kể cả công đoạn xoắn sau khi cán. Đối với hợp đồng quyền chọn, đối tượng của hợp đồng không phải là hàng hoá mà là quyền chọn mua, quyền chọn bán đối với hàng hoá. Nói cách khác, đối tượng của hợp đồng quyền chọn không hướng tới hàng hoá hữu hình mà hướng tới quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ mà bên mua quyền đã tạo ra trong hợp đồng kì hạn. Tuy nhiên, hợp đồng quyền chọn chỉ là hợp đồng phái sinh từ hợp đồng kì hạn, được các bên kí kết trên cơ sở hợp đồng kì hạn, vì vậy, đối tượng của hợp đồng quyền chọn không trực tiếp là hàng hoá nhưng có liên quan mật thiết đến hàng hoá, hướng tới mục tiêu giảm thiểu rủi ro mà hợp đồng kì hạn mang lại. 2.3. Phương thức giao dịch Cũng như trên thị trường chứng khoán tập trung, sở giao dịch hàng hóa thực hiện phương thức giao dịch thông qua việc khớp lệnh tập trung trên cơ sở lệnh mua, lệnh bán với nguyên tắc: Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất; nếu có nhiều mức giá đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất thì lấy mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất. Và nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì lấy mức giá được trả cao nhất. Đồng thời, việc khớp lệnh dựa trên cơ sở lệnh có mức giao cao hơn được ưu tiên thực hiện. Thời gian giao dịch do sở giao dịch công bố theo ngày, theo phiên giao dịch, thời gian khớp lệnh, mở cửa, đóng cửa... và công bố các thông tin liên quan đến việc thay đổi thời gian kể trên. Hạn mức giao dịch: Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP đã giới hạn tổng mức giao dịch của toàn bộ các hợp đồng trong thời gian giao ưdịch không được vượt quá 50% tổng khối lượng hàng hoá đó được sản xuất tại Việt Nam, tính theo năm trước đó. Mỗi thành viên chỉ được giao dịch không vượt quá 10% tổng hạn mức giao dịch kể trên. Để được tham gia giao dịch, Nghị định số 158/2006/NĐ-CP cho phép sở giao dịch hàng hóa căn cứ vào điều kiện của mình mà quy định mức kí quỹ giao dịch nhưng không được thấp hơn 5% trị giá của từng lệnh giao dịch và phải đảm bảo số dư tài khoản kí quỹ mở tại trung tâm thanh toán. Ngoài ra, Nghị định này cũng đặt ra các trường hợp ngoại lệ. Thời hạn giao dịch hợp đồng được tính từ phiên giao dịch đầu tiên của ngày đầu tiên giao dịch hợp đồng đó cho đến phiên giao dịch cuối cùng của ngày cuối cùng giao dịch hợp đồng đó. Khi hết hạn giao dịch, các bên nắm giữ hợp đồng có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ ghi trên hợp đồng. 2.4. Phương thức thực hiện hợp đồng Các bên trong quan hệ hợp đồng có thể lựa chọn,thực hiện theo thủ tục thanh toán bù trừ qua trung tâm thanh toán hoặc giao hàng. Trung tâm thanh toán là tổ chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ thanh toán trong hoạt động mua bán hàng hoá qua SGD hàng hoá. Trung tâm giao nhận hàng hoá là tổ chức thực hiện chức năng lưu giữ, bảo quản và giao nhận hàng hoá cho các hoạt động MBHHQSGDHH (khoản 1, 2 Điều 26; khoản 1, 2 Điều 29 Nghị định số 158). 2.5. Chế độ ủy thác mua bán hàng hóa qua sở giao dịch Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP cũng quy định chi tiết việc thực hiện chế độ uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH của tổ chức, cá nhân khác cho thành viên kinh doanh qua SGDHH theo hợp đồng uỷ thác bằng văn bản. Để có thể yêu cầu thành viên kinh doanh qua SGDHH thực hiện các yêu cầu mua, bán hợp đồng của mình, khách hàng phải có nghĩa vụ kí quỹ theo quy định, mức tiền kí quỹ do các bên thoả thuận nhưng không được thấp hơn 5% trị giá lệnh uỷ thác giao dịch. Kết quả giao dịch được thành viên kinh doanh qua SGDHH thông báo theo quy định của pháp luật. Ngoài các quy định trên, LTM và Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP đã ghi nhận quyền được tham gia giao dịch với các SGDHH ở nước ngoài của thương nhân Việt Nam. Điều này đã có tiền lệ khi Ngân hàng nhà nước cho phép Techcombank và BIDV thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn, giao dịch trên các SGDHH nước ngoài. 3. Quản lí nhà nước và cơ chế giải quyết tranh chấp, vi phạm, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa Thứ nhất, Pháp luật đã quy định vị trí, vai trò chủ đạo trong quản lí nhà nước liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch thuộc về Bộ thương mại (nay là Bộ công thương), ngoài ra hoạt động này còn chịu sự điều tiết quản lí từ phía Ngân hàng nhà nước (đối với chế độ, hoạt động thanh toán); Bộ tài chính (đối với chế độ thuế, phí, lệ phí giao dịch); Bộ kế hoạch đầu tư (trong việc phối kết hợp để thẩm định tính khả thi của việc thành lập sở giao dịch hàng hóa). Thứ hai, việc xử lí tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo các quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là tuân theo quy định của Luật thương mại, Luật khiếu nại, tố cáo, pháp luật về tố tụng dân sự... 4. Một số hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch Để đảm bào hiệu quả của hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, Điều 71 Luật thương mại 2005 quy định một số hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch như: Nhân viên của sở giao dịch hàng hóa không được phép môi giới, mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá. Các bên liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa không được thực hiện các hành vi sau đây: gian lận, lừa dối về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian lận, lừa dối về giá thực tế của loại hàng hoá trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn; đưa tin sai lệch về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hoá mua bán qua sở giao dịch hàng hóa; dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường hàng hóa tại sở giao dịch hàng hoá; các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.” Đối với thương nhân hoạt động môi giới hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, ngòai việc không thực hiện các hành vi nêu trên còn bị cấm thực hiện các hành vi: lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc bảo đảm lợi nhuận cho khách hàng. Chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với khách hàng. Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách hàng. Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới hợp đồng theo các nội dung đã thoả thuận với khách hàng. Các hành vi bị cấm khác quy định tại khoản 2 Điều 71 của Luật này”. III. Hoàn thiện pháp luật về quy chế thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch ở nước ngoài Hoàn thiện pháp luật về quy chế thương nhân môi giới, thương nhân là một trong những yêu cầu của quá trình hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Hiện nay, Luật thương mại mới chỉ quy định nguyên tắc chung khi xác định điều kiện hoạt động của thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên lại chưa có văn bản quy định cụ thể vấn đề này. Do đó, yêu cầu đặt ra là nghiên cứu để đưa ra các điều kiện hoạt động cụ thể của thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Trước hết, cần xác định tư cách của thương nhân môi giới là thành viên của sở giao dịch hàng hóa, thực hiện việc môi giới hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới để thực hiện các hoạt động môi giới, thương nhân môi giới phải đáp ứng các điều kiện như quy định của pháp luật về tổ chức, mức vốn pháp định, điều lệ… 1. Hoàn thiện về hợp đồng và giao kết hợp đồng Hợp đồng và giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng nhất trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Việc thiết lập các quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch được thực hiện chủ yếu thông qua việc giao kết các hợp đồng. Căn cứ theo quy định của Luật Thương mại 2005 về các loại hợp đồng trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch, pháp luật cần quy định cụ thể nhằm chuẩn hóa các tiêu chí giao kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng, các điều khỏan cơ bản của hợp đồng… Căn cứ vào các quy định này, các sở giao dịch hàng hóa sẽ xây dựng các hợp đồng phù hợp với các giao dịch do mình thực hiện. 2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài của thương nhân Việt Nam Pháp luật Vỉệt Nan ghi nhận quyền hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài của thương nhân Việt Nam là phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam. Do chưa có các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này nên trong thời gian qua, mặc dù các thương nhân Việt Nam đã thực hiện một số giao dịch hàng hóa tại sàn giao dịch của nước ngoài nhưng vẫn chưa thực sự có hiệu quả. Yêu cầu hoàn thiện các quy định cụ thể về hoạt động này là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý cho các thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch tại các sở giao dịch ở nước ngòai. Các vấn đề cần hoàn thiện bao gồm: điều kiện để thương nhân Việt Nam được phép thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch ở nước ngoài, phương thức thực hiện các giao dịch mua bán, phương thức thanh toán, trách nhiệm của các cơ quan quảng lý Nhà nước trong hoạt động này… 3. Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm Nghị định số 06/2008/NĐ-CP ngày 16/1/2008 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại chưa có quy định về hành vi và các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch yêu cầu cơ quản lý phải ban hành các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. C. Kết luận Mua bán hàng hóa qua sở giao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập lớn Thương mại 2- Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.doc
Tài liệu liên quan