MỤC LỤC
Đề tài: MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
1.1 Chính sách tài khóa 3
1.1.1 Khái niệm chính sách tài khóa 3
1.1.2 Phân loại chính sách tài khóa 3
1.1.2.1 Chính sách tài khóa mở rộng 4
1.1.2.2 Chính sách tài khóa thu hẹp 4
1.1.3 Chính sách tài khóa và mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô 4
1.1.3.1 Khi nền kinh tế suy thoái 5
1.1.3.2 Khi nền kinh tế lạm phát 6
1.2 Đặc điểm chính sách tài khóa các nước 7
1.2.1Chính sách tài khóa thuận chu kỳ và ngược chu kỳ 7
1.2.2Đặc điểm chính sách tài khóa các nước phát triển 7
1.2.3Đặc điểm chính sách tài khóa các nước đang phát triển 8
1.2.4Các nguyên tắc tài khóa 9
1.2.2.2 Cân bằng ngân sách 10
1.2.2.3 Nguyên tắc vàng 10
1.2.2.4 Nguyên tắc các quỹ bình ổn 10
1.2.2.5 Nguyên tắc 1% của Chile .11
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA Ở VIỆT NAM
2.1 Chính sách tài khóa giai đoạn 2000-2007 12
2.2 Chính sách tài khóa giai đoạn 2007-200 14
2.3 Chính sách tài khóa giai đoạn 2009 đến nay 16
2.4 Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đối với nền kinh tế nước ta 19
PHẦN 3 : MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN NĂM 2020
3.1 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 21
3.1.1 Tình hình đất nước 21
3.1.2 Quan điểm phát triển kinh tế đến năm 2020 22
3.1.3 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 22
3.2 Ba nhóm nhiệm vụ chiến lược 24
3.3 Lựa chon chính sách tài khóa đến năm 2020 25
3.3.1 Mục tiêu trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vào Ngân sách nhà nước (NSNN) 25
3.3.2 Mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN trong dài hạn 27
3.4 Mục tiêu chính sách tài khóa từ năm 2011 đến 2015 29
3.4.1 Mục tiêu của chính sách tài khóa 2011 29
3.4.2 Làm thế nào để đạt được mục tiêu :” Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt giảm đầu tư công, giảm bôi chi NSNN?” 30
3.5 Mục tiêu chính sách tài khóa từ năm 2016 đến 2020 33
PHẦN 4: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Nhận xét 35
4.2 Kiến nghị 37
KẾT LUẬN 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15868 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mục tiêu chính sách tài khoá Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rưởng trên 7% (năm 2008) xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm mạnh, như giá gạo trong tháng 10-2009 giảm tới 20%; cà phê giảm tới 34,5%; cao su giảm gần 50%... Một vấn đề nữa là, với quy mô nền kinh tế còn nhỏ, xuất phát điểm thấp nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới trên tất cả các cấp độ, kèm theo đó, trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cường độ và mức độ lớn. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng, thất nghiệp cao... Nền kinh tế yếu đi, các doanh nghiệp rơi vào tình trạng suy kiệt. Một số doanh nghiệp bị phá sản, số còn lại liên tục gặp khó khăn.
Cùng với xu hướng chung của thế giới, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp điều hành quyết liệt nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng bền vững. Một trong những giải pháp chủ yếu là Chính sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích cầu. Gói kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói kích cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và tạo việc làm, đây là hai điều quan trọng nhất thể hiện khá rõ vai trò của Nhà nước thông qua các gói kích cầu. Bên cạnh đó, năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo kích cầu đầu tư, tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước, đồng thời ứng trước từ ngân sách để thực hiện một số dự án cấp bách; tăng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách và trái phiếu Chính phủ, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, nông nghiệp, nông thôn, các công trình y tế, giáo dục, an sinh xã hội; tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài và vốn viện trợ phát triển. Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và các thành viên Chính phủ thường xuyên làm việc với các Tập đoàn, Tổng công ty lớn; thực hiện giao ban trực tuyến với các địa phương về các biện pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, ngăn chặn suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tổng thu ngân sách năm 2009 tiếp tục tăng, đạt khoảng 390,65 nghìn tỷ, bằng 100,2% kế hoạch dự toán, trong đó các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%. Tổng chi ngân sách Nhà nước năm đến 2009 ước tính đạt 96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 99,6%; chi trả nợ và viện trợ đạt 102,7%. bội chi ngân sách khống chế dưới 7% GDP, thực hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra, trong đó 81,2% mức bội chi được bù đắp bằng nguồn vay trong nước; 18,8% bù đắp bằng nguồn vay nước ngoài.
Giá cả thị trường tương đối ổn định. Kiềm chế lạm phát phi mã (từ 19,89%) năm 2008, xuống còn khoảng 7%, trong bối cảnh áp dụng nhiều biện pháp kích cầu đầu tư, đã miễn, giảm, giãn hoãn thời gian nộp một số loại thuế, với tổng số khoảng 20.000 tỷ đồng; bảo lãnh 1.110 dự án với tổng mức vốn hơn 8.360 tỷ đồng. Các mặt hàng xăng dầu, điện, than được chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường theo lộ trình, không gây xáo trộn.
Chi an sinh xã hội tăng 62% so với năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 11%. Tổng số chi cho an sinh xã hội năm 2009 ước khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với năm 2008. Trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai hơn 41,5 nghìn tấn gạo. Các doanh nghiệp hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ đồng. Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ước tăng 45,3% so với năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đến cuối năm còn khoảng 11%.
Thu hút đầu tư nước ngoài và viện trợ chính thức đạt mức cao. Chính phủ tăng cường nội dung hợp tác kinh tế trong các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo Chính phủ; tập trung đẩy mạnh xúc tiến kinh tế đối ngoại; đàm phán và đưa vào thực hiện Hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) với một số nước; hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới trên bộ với Trung Quốc, tạo điều kiện rất quan trọng để xây dựng biên giới Việt – Trung hoà bình, hữu nghị, hợp tác phát triển bền vững, lâu dài; tổ chức thành công Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất; ký kết và đưa vào thực thi Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (VJEPA).
Các nhà tài trợ trên thế giới đã cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam năm 2010 trên 8 tỷ USD, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt hơn 21 tỷ USD.
Năm 2009, mặc dù có nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nhưng thương mại của Việt Nam với các nước vẫn đạt khoảng 130 tỷ USD. Việt Nam cũng có 457 dự án đầu tư đang thực hiện ở 50 nước và vùng lãnh thổ, với số vốn khoảng 7,2 tỷ USD ; đặc biệt hợp tác đầu tư với Lào, Campuchia, LB Nga ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, thiết thực.
Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3%, là 1/12 nước có GDP tăng trưởng dương của thế giới và là nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Theo IMF (công bố tháng 10/2009): Năm 2009 Indonesia: 4,0%; Malaysia: - 3,6%; Philippines: 1%; Thailand: -3,5%; Việt Nam: 4,6%. tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008), thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng bước.
Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường trong các năm 2008 - 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp đến là nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng nhập siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ USD, và năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát kép, tức là vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro tiềm ẩn khác trong chính sách tiền tệ là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại thời điểm này đang được cho là có vấn đề, do các ngân hàng thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để huy động vốn.
Vì vậy, thời gian sau đó Chính phủ đã thực hiện 6 nhóm giải pháp đồng bộ cùng với gói kích cầu thứ hai để nâng cao hiệu quả đầu tư, trong đó, tập trung vốn đầu tư cho phát triển các dự án, công trình có hiệu quả, có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng sớm trong năm 2010 - 2011, thay vì mở rộng đầu tư trong bối cảnh khan hiếm vốn, tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP cao và hệ số ICOR cao. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần chọn lọc hơn khi triển khai gói kích thích kinh tế bổ sung, chỉ ưu tiên hỗ trợ những ngành, lĩnh vực trực tiếp sản xuất tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, gói kích thích kinh tế bổ sung đặt trọng tâm vào chính sách tài khóa (chính sách thuế, tài chính, ngân sách...) và cải cách hành chính nhằm làm cho chính sách dễ đi vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4 Đánh giá tác động của chính sách tài khóa đối với nền kinh tế nước ta
Một trong các phương pháp để đánh giá trạng thái tài khóa hiện được nhiều nhà kinh tế và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) sử dụng là đo lường xung lực tài khóa đối với sản lượng/GDP trong một khoảng thời gian nhất định. Một sự đo lường dương (hay âm) của xung lực tài khóa sẽ hàm ý trạng thái tài khóa mở rộng (thu hẹp) hơn so với năm trước.
Kết quả đo lường cho thấy, từ năm 1994 đến nay, trạng thái tài khóa Việt Nam liên tục được mở rộng, đặc biệt kể từ sau năm 2000. Nếu như giai đoạn 1994 - 2000, xung lực tài khóa ở mức bình quân 3%, thì từ năm 2001 đến nay xung lực tài khóa bình quân là 5%.
Tuy nhiên, tình trạng tài khóa phản ứng không phù hợp với trạng thái chu kỳ kinh tế. Nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái vào cuối năm 1997, nhưng tài khóa lại thắt chặt. Cụ thể, năm 1999 tăng trưởng ở mức dưới tiềm năng, thì trạng thái tài khóa chỉ thay đổi ở mức 1% GDP. Đến những năm 2000 - 2002, nền kinh tế chỉ mới đang trên đà phục hồi (vẫn còn ở mức thấp hơn tiềm năng), thì trạng thái tài khóa liên tục kiềm chế ở mức 3% GDP. Bắt đầu từ năm 2005, nền kinh tế tăng trưởng nhanh (trên mức tiềm năng), thì trạng thái tài khóa lại liên tục mở rộng ở mức rất cao từ 4% đến 6% GDP. Kết quả, trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, lượng tiền trong lưu thông tăng tới 135%, trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ ở mức 27%. Điều này có nghĩa, Nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn hơn gấp nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên.
Giai đoạn 2005 - 2007, hệ số ICOR của Việt Nam tăng rất cao (>5), cho thấy khả năng hấp thụ vốn đầu tư cho tăng trưởng rất thấp. Nghĩa là, tổng cầu đầu tư càng cao do kích thích tài khóa, cuối cùng chỉ cho thấy giá cả càng cao chứ không làm gia tăng sản lượng. Tình trạng điều hành chính sách tài khóa Việt Nam đúng như nhận định của IMF: “... trong các nền kinh tế đang phát triển, chính sách tài khóa có đặc thù là thuận chu kỳ - đó là, tăng thêm kích thích trong thời gian kinh tế tăng trưởng và tháo dỡ trong thời kỳ suy thoái”. Điều này gợi lên vấn đề, chính sách tài khóa đó có khuynh hướng gây bất ổn định hơn là góp phần giảm biến động chu kỳ kinh tế.
PHẦN 3
MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN NĂM 2020
3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020
3.1.1. Tình hình đất nước:
Đại hội Đảng lần thứ XI quyết định Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng khoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt được bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
3.1.2. Quan điểm phát triển kinh tế đến năm 2020
Đứng trong một thế giới toàn cầu hoá với những biến động và tác động đa chiều nói trên, để đưa đất nước tiến lên, tránh nguy cơ tụt hậu, dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã xác định trong 10 năm tới Việt Nam là sẽ tập trung vào việc thực hiện 3 đột phá sau:
1) Hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung vào việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính để giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng tốt nhất mọi nguồn lực.
2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân.
3) Xây dựng hệ thống kế cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn.
Để góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020, việc hoạch định và tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến lược tài chính đến năm 2020 có ý nghĩa rất quan trọng. Chiến lược tài chính giai đoạn 2011-2020 cũng phải phải hướng tới việc hỗ trợ thực hiện có hiệu quả 3 đột phá nói trên.
3.1.3. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược tài chính giai đoạn 2011-2020 là: Xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định tài chính - tiền tệ, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; huy động, quản lý, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường công tác quản lý, giám sát tài chính.
Các mục tiêu cụ thể là:
(1) Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; tiếp tục có chính sách khuyến khích tăng tích lũy cho đầu tư phát triển, hướng dẫn tiêu dùng; thu hút hợp lý các nguồn lực xã hội để tập trung đầu tư cho hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các điểm nghẽn của phát triển, tạo tiền đề để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, duy trì tổng đầu tư toàn xã hội bình quân khoảng 39-40% GDP, giai đoạn 2011-2015 khoảng 40% GDP, giai đoạn 2016-2020 khoảng 38-39% GDP.
Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo mà tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được, từng bước giảm tỷ trọng đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư xã hội.
(2) Tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào NSNN ở mức hợp lý; cân đối ngân sách tích cực, giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN. Tổng thu cân đối NSNN ở mức 23-24% GDP, trong đó từ thuế và phí đạt mức 22%-23% GDP. Quy mô chi NSNN ở trong khoảng 27%-28% GDP.
(3) Đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia; duy trì dư nợ chính phủ và nợ quốc gia trong giới hạn an toàn; tăng cường dự trữ Nhà nước đáp ứng kịp thời các nhu cầu đột xuất của nền kinh tế.
(4) Phát triền đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính và dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc huy động và định hướng các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển.
(5) Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, đặc biệt nguồn vốn từ NSNN; tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN; tăng cường đầu tư phát triển con người, cải cách cơ chế tài chính đối với lĩnh vực giáo dục, y tế; cải cách tiền lương; từng bước xây dựng và củng cố hệ thống an sinh xã hội.
(6) Cải cách cơ bản thể chế tài chính theo hướng bền vững, đồng bộ, hiện đại, theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của nhà nước tạo động lực đủ mạnh cho các chủ thể tham gia lao động, thực hiện tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng lành mạnh; khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh; thiết lập môi trường kinh tế - xã hội an toàn, ổn định với hệ thống an sinh xã hội, bền vững; đồng thời đảm bảo vai trò chủ đạo của nhà nước trong điều tiết, định hướng nền kinh tế.
Trong đó, năm năm 2011 - 2015 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.
3.2 Ba nhóm nhiệm vụ chiến lược:
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam năm 2010 phụ thuộc rất nhiều vào các mục tiêu mà chúng ta đặt ra và lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mô để đạt được các mục tiêu đó. Các mục tiêu lại đòi hỏi lựa chọn các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Vì vậy, lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cần thận trọng, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và bền vững trong năm hướng đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì năm 2011 là bước ngoặc quan trọng. Rõ ràng đây là mục tiêu không đơn giản khi bối cảnh quốc tế chưa hoàn toàn thuận lợi và nhân tố tăng trưởng kinh tế không có thay đổi cơ bản sau một thập kỷ. Trên con đường gập ghềnh đó, "cỗ xe" kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên những động lực truyền thống là:
3.2.1.Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục từ mức một phần ba GDP cuối thế kỷ 20 lên hơn 40% GDP mấy năm gần đây, theo đó, hiệu quả đầu tư tổng thể giảm mạnh thể hiện qua hệ số ICOR tăng cao.
3.2.2. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chậm nên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể đạt mục tiêu chiến lược nhưng hầu như không có thay đổi về chất trong tăng trưởng, hơn nữa, đáng lo ngại là không thể tạo tiền đề đột phá tăng trưởng ở mức cao hơn.
3.2.3. Thứ ba, mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trong khi chuyển dịch cơ cấu hàng hóa và thị trường xuất khẩu hạn chế. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm khai khoáng và thô vẫn chiếm ưu thế trong khi nhóm hàng công nghiệp nhẹ vẫn chủ yếu là gia công tận dụng lao động giản đơn giá rẻ có giá trị gia tăng thấp... Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu cũng chậm thay đổi nên mặc dù tổng kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa còn rất hạn chế. Nhập khẩu máy móc thiết bị để đổi mới công nghệ, tăng năng suất và chất lượng chỉ chiếm khoảng một phần tư tổng kim ngạch nhập khẩu trong khi nhập khẩu nguyên nhiên liệu chiếm tới hai phần ba tổng kim ngạch nhập khẩu...
3.2.4. Thứ tư, ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Mức độ lạm phát (thể hiện qua CPI) giai đoạn 2001-2010 thấp hơn so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, nếu lạm phát giai đoạn 1991-2000 có xu hướng giảm đều đặn thì từ năm 2001 lạm phát lại có xu hướng tăng. Quan trọng hơn, CPI của những hàng hóa dịch vụ thiết yếu lại tăng cao hơn CPI chung nên đã tác động trực tiếp tới thu nhập thực tế và mức sống của đại bộ phận người dân có thu nhập trung bình và thấp.
Tóm lại, để bảo đảm đến năm 2020, Việt Nam có một nền kinh tế có quy mô tương xứng với dân số khoảng 100 triệu người và cơ cấu phù hợp với một nước công nghiệp thì ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ thường xuyên, duy trì các cân đối vĩ mô được coi là nhiệm vụ trung hạn và cơ cấu lại nền kinh tế thuộc nhiệm vụ trung, dài hạn. Những lựa chọn chính sách của Việt Nam trước mắt trong năm 2010 và các năm tiếp theo đều cần nhằm thực hiện ba nhóm nhiệm vụ chiến lược nêu trên.
3.3 Lựa chọn chính sách tài khóa từ nay đến năm 2020
3.3.1. Trọng tâm trong ngắn hạn của chính sách tài khóa là giữ vững mức động viên vàoNgân sách nhà nước( NSNN).
Ðịnh hướng chính sách tài khóa từ đây đến cuối 2011 là tiếp tục chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Theo đó, năm 2011, dự toán tổng số thu cân đối NSNN là 595.000 tỷ đồng, tương đương 26,2% GDP. Nếu tính cả 10.000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang, tổng số thu cân đối NSNN dự toán năm 2011 là 605.000 tỷ đồng tăng 12,7% so với năm 2010. Dự toán thu nội địa từ hoạt động sản xuất, kinh doanh tăng 19,3%. Trong đó phần lớn thu NSNN là thuế, phí, lệ phí.
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế và chính sách tài khóa tiếp tục phát triển và đạt được những hiệu quả tích cực thì yêu cầu phải:
Giải phóng và huy động hiệu quả mọi nguồn lực tài chính phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; động viên hợp lý các nguồn thu NSNN trên cơ sở tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống thuế, phí phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế và thông lệ quốc tế, đồng thời thu hút có hiệu quả
Phải hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đảm bảo các yêu cầu: Thuế và phí vừa đảm bảo động viên hợp lý vào NSNN, vừa phát huy cao độ các nguồn nội lực thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và khả năng tích tụ của doanh nghiệp, nếu mức thu thuế quá cao sẽ không đảm mức tái đầu tư cho các doanh nghiệp trong tình hình kinh tế diễn biến phức tạp như hiện nay. Khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư nhất là đầu tư áp dụng công nghệ cao, đầu tư vào vùng kinh tế xã hội khó khăn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Thuế và phí phải đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết hợp lý của NSNN và giành một phần cho tích luỹ. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng thuế và phí bình quân hàng năm đạt 14 – 16%/năm; tỷ lệ động viên thuế và phí giai đoạn 2011 – 2020 khoảng 20% – 21%/ GDP.
Về quản lý điều hành NSNN: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu NSNN; tăng cường quản lý, chống thất thu; đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, xử lý nợ đọng, gian lận thuế; tăng cường cải cách thủ tục hành chính thuế.
Về quản lý thuế: Thủ tục hành chính thuế được đơn giản hoá; các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ quản lý của cơ quan thuế được công khai tạo thuận lợi cho người nộp thuế biết và tham gia vào quá trình giám sát công chức thuế thực thi pháp luật thuế. Việc quản lý thuế phải nâng cao hiệu quả, đảm bảo quản lý chặt đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế; nâng cao chất lượng giám sát sự tuân thủ của người nộp thuế,. đảm bảo công bằng và bình đẳng trong kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh; tiếp tục phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quản lý thuế.
Phát triển dự án hiện đại hóa thu ngân sách Nhà nước giữa các cơ quan thuế - kho bạc - hải quan - tài chính; phối hợp kho bạc Nhà nước và một số ngân hàng thương mại thực hiện dự án 'Nộp thuế qua ngân hàng', giúp người nộp thuế giảm chi phí về thời gian, giấy tờ, bảo đảm tính chính xác trong quá trình thu thuế vào ngân sách Nhà nước.
3.3.2. Mức độ thâm hụt NSNN trong lộ trình tiến tới cân bằng cán cân NSNN trong dài hạn
Phải nhìn nhận thực tế rằng nếu thâm hụt ngân sách tăng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy như: Làm định mức tín nhiệm quốc gia suy giảm, làm tăng chi phí vay vốn của Chính phủ và DN trên thị trường quốc tế, làm giảm hạn mức đầu tư vào nước ta.
Vì vậy việc cần làm là phải giảm mức thâm hụt ngân sách, tuy nhiên nước ta đang đứng trước thử thách là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đồng thời đang phải giải quyết thiệt hại do thiên tai gây ra nên việc thắt chặt chi tiêu chính phủ là hết sức khó khăn. Vì vậy việc giảm thâm hụt ngân sách phải thực hiện một cách từ từ. Đồng thời phải tìm nguồn bù đắp thâm hụt hợp lý.
Dự toán chi NSNN năm 2011 được Quốc hội thông qua là 725.600 tỷ đồng, bội chi NSNN 120,600 tỷ đồng bằng 5,3% GDP so với con số 5,6% năm 2010. Ngoài ra, còn phát hành 45.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư cho các dự án thuộc các mục tiêu giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế và xây dựng ký túc xá sinh viên. Ðể thực hiện tốt chức năng quản lý chi, ngành tài chính tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngân sách; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cũng như các nguồn tài chính công khác để đạt mục tiêu còn 4,5% GDP vào năm 2015 và tiến tới cân bằng ngân sách trong tương lai xa hơn..
Cụ thể của các chính sách trên là:
Thứ nhất là, thắt chặt, đồng thời tăng hiệu quả chi ngân sách. Việc kiềm chế tăng chi ngân sách và tăng cường hiệu quả của ngân sách, đặc biệt là của đầu tư công sẽ giúp giảm sức ép đối với chỉ số giá tiêu dùng và giảm rủi ro khi có những biến động từ bên ngoài. Đặc biệt, khi chúng ta áp dụng chế độ tỷ giá gần như cố định và không gian chính sách tiền tệ hạn chế thì việc điều chỉnh chính sách tài khóa càng quan trọng. Tuy nhiên trong tương lai xa thì việc chi tiêu ngân sách nhà nước cần phải được mở rộng để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật để tương xứng với mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai là, thận trọng với những dự án đầu tư đòi hỏi nguồn vốn ngân sách lớn. Cần phải đẩy nhanh tiến độ của các dự án lớn đang triển khai. Đồng thời hạn chế việc khởi công những dự án lớn trong năm 2011 để tránh những rủi ro của việc không thu xếp được nguồn vốn, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất trắc như hiện nay. Mặc dù mục tiêu là cần tháo gỡ điểm nghẽn cho các các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng để đạt mục tiêu đến năm 2020 hệ thống cơ sở hạ tầng phải tương xứng thì Chính phủ phải tìm nguồn đầu tư hiệu quả cho lĩnh vực này và việc đầu tư ngân sách nhà nước vào đây không thể giảm, tuy nhiên với điều kiện kinh tế lạm phát cao như hiện nay mục tiêu kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu, vì vậy mà đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng tạm thời được hoãn lại và phải tìm nguồn đầu tư hiệu quả như cho phép các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào để kiếm lợi nhuận.
Thứ ba là, giảm thâm hụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhom 6-De tai 1.doc
- Nhom 6-De tai 1.ppt