Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam

Ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành thu phí trước của khách hàng. Sau đó - bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng bảo hiểm, các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy, người ta còn gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác, cùng với hoạt động kinh doanh các công ty bảo hiểm luôn phải quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định.

Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật cho phép các công ty bảo hiểm được sử dụng nguồn quỹ dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi, cũng đồng thời là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm.

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2253 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy dễ nổ trên đường thủy nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ, người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng - lắp đặt, người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo và ban hành, nếu có thực hiện sẽ vào nửa cuối năm 2007. Ðiều đáng lo ngại nhất là, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO. Ðể nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế. Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm cùng với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. Ðào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sĩ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá... Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng, việc mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, bảo đảm quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Ðiều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam. 1.3.2. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế. Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP. Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống. Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao. 1.3.3. Mục tiêu phấn đấu – con đường còn dài. Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài, Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”. Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP. Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP. 1.4. BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP. 1.4.1. Những bất cập mà doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang gặp. Ngành bảo hiểm là ngành kinh doanh đặc thù có chu trình tính chi phí ngược, tức thu trước chi phí sau. Bộ Tài chính cũng đã ban hành chế độ hạch toán kế toán riêng cho DN này và đã có nhiều sự thay đổi, nhưng với bối cảnh hội nhập hiện nay thì những thay đổi đó chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt, là những vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nước ngoài như: báo cáo kế toán, thưởng thu phí, thưởng không khiếu nại hay giảm phí cho những đối tượng nhiều năm tham gia bảo hiểm… Ở nước ngoài khi bảo hiểm vài năm mà không có tổn thất thì người ta thường nghĩ tới thưởng cho những doanh nghiệp này, vì họ tạo ra lợi ích, nên họ được phép thưởng. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 155 Thách thức lớn nhất hiện nay chính là công nghệ thông tin. Bởi để phát triển mạnh lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta cần phải có một hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình khai thác và quản lý nội địa. Nếu có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và hoàn chỉnh, nó sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các DN về mặt thời gian, độ chính xác trong việc tra cứu khách hàng, đối tượng bảo hiểm hay công tác hạch toán kế toán, đặc biệt là khâu bồi thường: các DN không phải đối chiếu, tìm giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy thông báo tai nạn, giấy đăng kiểm... gì cả, mà chỉ cần bật máy ra là có hết. Còn nếu làm thủ công thì mất hàng giờ để soi từng chữ, trong khi máy tính chỉ mất 2-3 phút. Do đó, công nghệ thông tin vẫn là thách thức lớn nhất đối với hoạt động dịch vụ bảo hiểm hiện nay. 1.4.2. Môi trường kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Có thể nói, môi trường kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn và rất nhiều khoản chưa khai thác được, như: toàn bộ thị trường nông nghiệp, nông thôn, thị trường tư nhân… nhà ở và tài sản cá nhân cũng chưa được khai thác hết. Đặc biệt là, toàn bộ công trình của các tổ chức, cơ quan chính quyền địa phương hoạt động bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đều chưa được khai thác vì chưa có ngân sách cấp để tham gia bảo hiểm, nên khi xảy ra tổn thất vẫn phải sử dụng ngân sách để giải quyết những thiệt hại. Ngoài ra, hàng năm chúng ta thu hút một lượng vốn lớn từ ODA, FDI và vốn đầu tư toàn xã hội… Như vậy, đầu tư càng phát triển thì nhu cầu bảo hiểm càng cao. Tuy tiềm năng lớn nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Trên thực tế, không phải đơn thuần 27 DN đang kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ cạnh tranh với nhau mà là 350 chi nhánh của các DN bảo hiểm (hoạt động như những công ty con) cạnh tranh với nhau. Chẳng hạn: Các chi nhánh bảo hiểm ở Hà Tây cũ hay Bắc Ninh vươn vào Hà Nội khai thác và ngược lại. Vì nó họat động theo hệ thống công ty mẹ, công ty con, tức là tổng công ty ở Hà Nội thì  tôi quan hệ cả với các chi nhánh ở các tỉnh... nên phạm vi hoạt động khá rộng. 1.4.3. Giải pháp. Mục tiêu trước mắt đối với ngành bảo hiểm Việt Nam là rất nặng nề. Việc duy trì được tốc độ tăng trưởng lên đến 40% một năm là điều khó khăn, tuy nhiên để nâng cao hơn nữa so với tốc độ tăng trưởng trong ba năm qua là điều có thể thực hiện được. Để làm được việc này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên tập trung vào các giải pháp phù hợp nhằm tăng doanh thu và nâng cao hiệu quả đầu tư như sau: Tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và mở rộng mạng lưới. Hiện nay các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước hoạt động tốt hơn các đối thủ cạnh tranh nước ngoài một phần nhờ sự bảo hộ của Chính phủ, một phần dựa vào mạng lưới khách hàng đã được xây dựng từ trước. Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác thị trường và các mối quan hệ nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống. Đây là một yếu tố quan trọng hỗ trợ các công ty bảo hiểm có thêm nguồn lực để thực hiện các kế hoạch và chiến lược kinh doanh dài hạn để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài có tiềm lực. Thành lập các tổ chức đầu tư độc lập với hoạt động khai thác để có thể thực hiện đầu tư chuyên nghiệp và hiệu quả từ phí bảo hiểm. Liên doanh, liên kết với các tổ chức tài chính để có thể có khả năng mạnh hơn với áp lực cạnh tranh khi các công ty bảo hiểm nước ngoài gia nhập thị trường theo lộ trình cam kết của Việt Nam với WTO Giảm sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm bằng cách đưa các doanh nghiệp bảo hiểm lên sàn để vừa gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, vừa dễ huy động vốn, gia tăng khả năng tài chính trong hoạt động Mười năm năm qua, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đóng góp một cách chủ động vào phát triển tài chính, nhưng những hạn chế này sẽ nhanh chóng được gỡ bỏ. Với mục tiêu chiến lược phát triển phù hợp và trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vai trò trong nền kinh tế.  CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM 2.1. DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM PHÁT TRIỂN THEO CHIỀU SÂU. 2.1.1. Những yếu tố tác động đến thị trường bảo hiểm. Năm 2009, cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tới nền kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh bị giảm sút về đầu ra tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và xuất khẩu nước ngoài bị thu hẹp. Không ít doanh nghiệp đã phải cắt giảm sản xuất kinh doanh, cắt giảm lao động hoặc cố gắng duy trì lực lượng lao động nhưng không đủ ngày công hàng tháng. Tình hình này ảnh hưởng nhiều tới khả năng tài chính đóng phí bảo hiểm để tham gia bảo hiểm cho tài sản, trách nhiệm, gián đoạn kinh doanh và bảo hiểm cho người lao động. Các ngành nghề gặp khó khăn trong khi có giá trị tài sản lớn và đóng phí bảo hiểm nhiều bao gồm: các cơ sở đóng tàu, kinh doanh vận tải biển và thủy nội địa, hàng không, than khoáng sản, dầu khí, thép, xi măng. Những khó khăn này đã tác động đến tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên có thể nhận thấy qua kết quả quý I năm 2009 là một số DNBH thị phần lớn đã củng cố để phát triển, không coi trọng tăng trưởng doanh thu bằng mọi giá mà đi vào chiều sâu, đó là hiệu quả - tăng trưởng bền vững và củng cố để phát triển khi nền kinh tế toàn cầu hồi phục. Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường bảo hiểm Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước trên thế giới bị chững lại, suy thoái và nhiều nước trước đây có tốc độ tăng trưởng khá thì nay đã phải điều chỉnh tốc độ tăng trưởng giảm đi, trong đó có Việt Nam. Đây là vấn đề mấu chốt nhất có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói riêng. Những tháng cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bùng phát mạnh mẽ, buộc công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới AIG rơi vào nguy cơ mất khả năng thanh toán trầm trọng. Công ty bảo hiểm nhân thọ Ya-ma-mo-to của Nhật Bản không được cứu nguy cho nên đã phải nộp đơn xin phá sản vào ngày 10-10-2008. Ủy ban Giám sát Bảo hiểm và trợ cấp nghề nghiệp của châu Âu thì vẫn đang sát sao theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình thị trường,... 2.1.2. Tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm chậm lại. Đối với các DN bảo hiểm PNT, nhìn chung các nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn chiếm tỉ trọng cao có tốc độ tăng trưởng chậm lại so với cùng kì 2008. Các doanh nghiệp bảo hiểm có doanh thu cao chiếm thị phần lớn đã có tốc độ tăng trưởng âm so với cùng kì như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO. Điều này phần nào phản ánh khó khăn của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ giai đoạn đầu năm 2009. Ở mảng bảo hiểm nhân thọ, các DN đã nỗ lực tuyên truyền, giải thích, trợ giúp khách hàng để tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm. Đặc biệt các doanh nghiệp đưa ra nhiều sản phẩm bảo hiểm với số tiền bảo hiểm tích lũy lớn, bảo tức cao mức độ bảo vệ rủi ro cho người tham gia bảo hiểm tốt hơn nên đã tiếp tục khai thác được nhiều hợp đồng bảo hiểm, tạo ra được doanh thu 2.514 tỉ đồng tăng 7% so với năm 2008. Đây là 1 kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước và thế giới. Rõ ràng sự chuyển hướng về sản phẩm có lớp bảo vệ cao và đa dạng đang tạo ra một hướng đi tích cực đối với thị trường BHNT Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn chung của nền kinh tế đang tác động tới hoạt động chi tiêu của các hộ gia đình. Thứ nhất, vốn đầu tư xã hội, vốn FDI và vốn ODA đang có dấu hiệu chững lại. Số dự án FDI đăng ký mới trong tháng 10-2008 là 68 dự án, với tổng số vốn là 2,02 tỉ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm. Khả năng giải ngân vốn FDI và vốn ODA trong cả năm 2008 cũng chịu ảnh hưởng đáng kể của cuộc khủng hoảng. Bên cạnh đó, do tình hình lạm phát diễn biến phức tạp nên đã có hơn 1.600 dự án bị hoãn lại hoặc cắt bỏ. Nhiều dự án lớn, do khó khăn về vốn, đã không bảo đảm đúng tiến độ, thời gian hoàn thành dự án bị kéo dài. Thực trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng khai thác để tăng doanh thu phí bảo hiểm, đến công tác quản lý rủi ro của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với một loạt nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu như: bảo hiểm xây dựng và xây lắp, bảo hiểm thiết bị máy móc, bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh,... Thứ hai, cuộc khủng hoảng đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu. Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ - một thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do nhu cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh do suy thoái kinh tế, nên trong năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang nước này chỉ đạt xấp xỉ 17%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Việt Nam đã giảm từ 20,7% năm 2007 xuống còn 17,7% năm 2008. Tương tự, vào thị trường EU cũng giảm từ 18% xuống còn 16,5%. Hiện tượng này cũng ảnh hưởng đáng kể đến doanh thu phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đối với các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tàu thủy và trách nhiệm dân sự của chủ tàu, … Thứ ba, do hệ lụy của cuộc khủng hoảng mà mức thu nhập thực tế của người dân thế giới nói chung, và người dân Việt Nam nói riêng, đã giảm đi cả về mặt tương đối và tuyệt đối. Từ đó, đã buộc người dân phải thắt chặt chi tiêu. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và khách du lịch là người Việt Nam cũng có xu hướng giảm đi tương đối. Hiện tượng này đã tác động trực tiếp đến nhu cầu tham gia bảo hiểm tai nạn và sức khỏe, bảo hiểm du lịch và các loại hình bảo hiểm nhân thọ nói chung. Ngoài ra, có một lượng đáng kể khách hàng đã tham gia bảo hiểm, nhất là tham gia loại hình bảo hiểm nhân thọ, xin hủy bỏ hợp đồng, do lo ngại về tình trạng lạm phát sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh thu phí bảo hiểm con người của các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động kinh doanh trên thị trường sẽ bị giảm đi, cho dù năm 2008 mới chỉ là sự giảm đi một cách tương đối, chưa đáng kể. Thứ tư, tuy cuộc khủng hoảng tài chính thế giới chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, song một số tác động gián tiếp của nó là rất đáng kể, như ảnh hưởng đến tỷ giá và lãi suất, đến tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng. Thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm đến nay liên tục bị sụt giảm. Chỉ số chứng khoán VN-Index đã có lúc lập đáy mới dưới 300 điểm và đã xuất hiện một số nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Tình trạng này đã gây tâm lý hoang mang không chỉ cho các nhà đầu tư nói chung, mà còn ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến kết quả và hiệu quả đầu tư quỹ nhàn rỗi của các doanh nghiệp bảo hiểm. Kéo theo đó, thị trường bất động sản đã bị đóng băng, những doanh nghiệp, những tập đoàn kinh tế mà các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp vốn liên doanh với họ làm ăn đang gặp khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận thu được của các nhà bảo hiểm. Thứ năm, kinh tế toàn cầu đang bị suy giảm đã làm gia tăng phí bảo hiểm ở hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm, như: phí bảo hiểm trách nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp (D&O), phí bảo hiểm lỗi và bỏ sót (E&O), phí bảo hiểm kỹ thuật,... Theo ông Đa-vít Bờ-rét-phót (David Bradford), Phó Chủ tịch tập đoàn Advisen, đã đến lúc có đủ các điều kiện để thị trường bảo hiểm chuyển sang giai đoạn tăng phí. Công ty tái bảo hiểm Munich Re của Đức vừa công bố rằng, họ sẽ áp dụng mức tăng phí bảo hiểm lên hai con số vào năm 2009. Tình hình này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu xếp tái bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Bởi muốn tái bảo hiểm đi, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam buộc phải tăng phí bảo hiểm gốc, mà điều này thì vô cùng khó khăn khi khủng hoảng tài chính đang có xu hướng diễn biến phức tạp. Ngoài ra, theo một quy luật chung trong lĩnh vực bảo hiểm, khi nền kinh tế bị suy thoái, bị khủng hoảng, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn ngày càng khó khăn, thì hiện tượng khiếu nại đòi bồi thường và hiện tượng trục lợi bảo hiểm lại diễn ra phổ biến và rất phức tạp. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng không phải là những trường hợp ngoại lệ. 2.1.3. Doanh nghiệp bảo hiểm trong bối cảnh hiện nay. Có thể nói việc khai thác bảo hiểm năm 2009 - 2010 khó khăn nhất từ trước đến nay. Do đó một mặt, các DNBH phải chung tay cùng tháo gỡ khó khăn với các cơ sở sản xuất kinh doanh, làm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hiểu rõ việc tham gia bảo hiểm gắn liền với sự sống còn của họ vì rủi ro sẵn sàng ập đến bất cứ lúc nào.  Nếu rủi ro xảy ra, các cơ sở sản xuất kinh doanh đã khó khăn rồi sẽ càng trở nên khó khăn thêm, thậm chí có thể đi đến bờ vực phá sản. Vậy làm sao để các cơ sở sản xuất có thể tham gia bảo hiểm cho những rủi ro thiên tai, tai nạn, thảm họa đang rình rập? Trước mắt, các DNBH phải nghiên cứu đưa ra những sản phẩm bảo hiểm cho những rủi ro tất yếu hay xảy ra hoặc đã xảy ra gây tổn thất lớn cho cơ sở sản xuất kinh doanh làm sao để mức phí phù hợp với khả năng tài chính hiện có của cơ sở. Hoặc thay vì thời hạn bảo hiểm là 1 năm thì có thể chia ra làm nhiều kỳ nộp phí hay nhiều hợp đồng bảo hiểm ngắn hạn liên tục có thời gian dưới 1 năm. Thứ hai là các DNBH cần rà soát, cắt giảm các chi phí không cần thiết, xây dựng các định mức chi phí hợp lý cho từng sản phẩm bảo hiểm, cho từng chi nhánh đơn vị thành viên; xem xét những chi phí khuyến mại, quảng cáo, hỗ trợ đại lý không mang lại hiệu quả; xây dựng cơ chế trả lương, hoa hồng đại lý gắn với hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị. 2.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP. 2.2.1. Đánh giá kết quả hoạt động của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.2.1.1. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau 10 năm hoạt động đã đạt được một số thành tựu sau: - Góp phần duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế - xã hội. - Phạm vi, quy mô thị trường bảo hiểm được mở rộng. - Thị trường bảo hiểm đã từng bước hội nhập quốc tế. - Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm được nâng cao. 2.2.1.2. Bên cạnh đó, thị trường Bảo hiểm Việt Nam vẫn còn một số tồn tại như: - Quy mô của thị trường bảo hiểm còn nhỏ. - Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế - xã hội còn hạn chế. - Hoạt động tái bảo hiểm còn dựa vào chế độ bắt buộc. - Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn thấp. - Môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh. - Hoạt động môi giới chưa phát triển, chất lượng đại lý bảo hiểm chưa cao. - Văn bản pháp quy còn thiếu và chưa đồng bộ (Luật Cạnh tranh chưa được ban hành) 2.2.2. Tình hình đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Nhà nước. Ngành kinh doanh bảo hiểm không giống như các ngành sản xuất kinh doanh khác. Khi một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, nhà kinh doanh bảo hiểm tiến hành thu phí trước của khách hàng. Sau đó - bằng sự cam kết của mình thông qua hợp đồng bảo hiểm, các công ty sẽ thực hiện trách nhiệm đối với khách hàng. Chính vì lẽ ấy, người ta còn gọi kinh doanh bảo hiểm có “chu trình sản xuất ngược”. Nói cách khác, cùng với hoạt động kinh doanh các công ty bảo hiểm luôn phải quản lý một nguồn vốn lớn và ổn định. Đây là nguồn gốc hình thành nguồn vốn nhàn rỗi, hay còn gọi là các quỹ dự phòng nghiệp vụ trong các công ty bảo hiểm. Pháp luật cho phép các công ty bảo hiểm được sử dụng nguồn quỹ dự phòng này để đầu tư. Việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm vừa là quyền lợi, cũng đồng thời là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm. Theo xu hướng, kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm không phải là lợi nhuận do hoạt động này mang lại, mà chủ yếu là do kết quả của hoạt động đầu tư tài chính. Trong tình hình kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt, công ty nào sử dụng đồng vốn có hiệu quả và đạt được mức sinh lời cao nhất sẽ có ảnh hướng tích cực đến kết quả hoạt động kinh doanh của toàn công ty. Kết quả này đảm bảo cho công ty có lợi nhuận để trích đủ các quỹ dự phòng nghiệp vụ và dự trữ tài chính theo quy định của luật pháp, ổn định thu nhập của cán bộ nhân viên. Khi nghiên cứu các số liệu về tình hình đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, ta thấy một số thực trạng sau: - Về cơ cấu và xu hướng đầu tư + Đầu tư dưới hình thức gửi tiền còn chiếm tỷ lệ cao. +Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngắn hạn trong tổng vốn đầu tư cao. - Về quy mô đầu tư: Quy mô đầu tư của các DNBH  còn nhỏ. - Về hiệu quả đầu tư: Hiệu quả đầu tư còn khiêm tốn do các DNBH đầu tư chủ yếu dưới hình thức gián tiếp là gửi tiền ngân hàng. - Về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư : Nhìn chung các doanh nghiệp bảo hiểm: +Chưa chuyên môn hóa cao trong đầu tư +Chưa đánh giá đúng vai trò to lớn của công tác đầu tư trong bảo hiểm . Bốn thực trạng trên có mối quan hệ với nhau. Do quy mô đầu tư còn nhỏ, trình độ chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư chưa cao dẫn đến các doanh nghiệp tập trung đầu tư bằng hình thức gián tiếp là gửi tiền vào ngân hàng để có độ an toàn cao. Từ đó dẫn đến hiệu quả đầu tư vốn thấp. 2.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Muốn đạt được mức lợi nhuận cao nhất các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả huy động và đầu tư vốn của mình trên các lĩnh vực: - Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài. - Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong nội bộ doanh nghiệp. - Nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn.  Tất cả những giải pháp áp dụng  phải tác động được vào ít nhất một trong 3 lĩnh vực trên.  Chúng ta đề cập những giải  pháp ở tầm vĩ mô và giải pháp đối với doanh nghiệp.  a). Nhóm 1. Các giải pháp ở tầm  vĩ mô. - Về cơ chế chính sách + Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang môi trường pháp lý. + Cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật cạnh tranh để hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị. + Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm. + Phát triển mạng lưới bảo hiểm chuyên nghiệp, môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. + Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ thông tin + Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. + Phát hành thêm các trái phiếu chính phủ. - Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước + Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. + Kiện toàn bộ máy tổ chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. + Sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hiện có. + Khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, kể cả thị trường khu vực và quốc tế.  b). Nhóm 2: Các giải pháp đối với doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm 2 lĩnh vực : Lĩnh vực 1: Nâng cao hiệu quả huy động vốn - Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài + Nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm: Doanh nghiệp phải phát huy được mọi tiềm năng, hu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphatthaobaohiem_4027.doc
Tài liệu liên quan