Trách nhiệm của Nhà nước là phải xác lập và kiểm soát việc thực hiện các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để đạt tới các mục tiêu phát triển do chính Nhà nước đề ra cho từng giai đoạn phát triển. Quy hoách và kế hoạch sử dụng đất vào từng mục tiêu phát triển phải được xây dựng trên quy mô cả nước và cụ thể hóa tới từng tỉnh, huyện và xã. Trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phải làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp chính quyền đối với việc thực hiện những chỉ báo đã được ghi rõ trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Môn tự chọn
Đề tài:
Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Hà Nội, 2/ 2006
Mở đầu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trong những năm đổi mới vừa qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đã được thực hiện một bước, tạo ra sự thay đổi tích cực rõ nét của khu vực nông nghiệp và nông thôn, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Văn kiện Đại hội IX cũng như các nghị quyết Trung ương của Đảng ta đã khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ ấy là rất nặng nề, không phải một sớm một chiều là có thể hoàn thành được, mà nó đòi hỏi chúng ta phải trải qua một chặng đường dài, có bước đi thích hợp và có những giải pháp mang tính chiến lược.
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực ban đầu, song nhìn chung kinh tế nông nghiệp và nông thôn của nước ta còn lạc hậu, sức cạnh tranh thấp, đời sống và các điều kiện kinh tế - xã hội của người nông dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa; một số nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thực hiện còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, quá trình này có thể được rút ngắn một cách thích hợp để chúng ta tiến nhanh hơn đến những mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, qua đó góp phần tiến nhanh hơn đến những mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nội dung
Có thể nói rằng chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà nước ta luôn có những đổi mới, bắt nhịp với tiến trình đổi mới chung của đất nước. Nghị quyết Trung ương V khóa IX về "Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010" được ban hành ngày 18-3-2002 đã đề ra chủ trương mới và toàn diện nhất về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn được đề cập trong Nghị quyết có thể được thâu tóm như sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Tăng cường cơ giới hóa, đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đổi mới quy trình canh tác.
- Hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
- Bảo vệ môi trường sinh thái.
- Không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần và sinh hoạt xã hội của người dân nông thôn.
Nghị quyết đã chỉ rõ những mục tiêu tổng quát của cả quá trình xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao tr ên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại. Nghị quyết cũng khẳng định từ nay đến năm 2010 phải tập trung mọi nguồn lực để thực hiện một bước cơ bản mục tiêu ấy.
Có thể nói rằng Nghị quyết Trung ương V có nội dung toàn diện và sâu sắc, thể hiện một tầm nhìn bao quát rộng và lâu dài. Nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, hòa quyện với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện của nước ta hiện nay cũng hàm chứa những khả năng và điều kiện để chúng ta có thể rút ngắn quá trình. Do vậy, những biện pháp và chính sách nhằm thực hiện rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong những năm tới cần quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa hữu hiệu tinh thần của Nghị quyết này.
Trong những năm tới, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vấn đề đặt ra là phải tính toán lại một cách tổng thể các nguồn lực hiện có và phân bổ hợp lý các nguồn lực đó vào các mục tiêu phát triển thật rõ ràng và mang tính dài hạn. Đồng thời, việc huy động thêm các nguồn lực chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa hiệu quả ở nông thôn hiện nay cũng phải được đặt ra giải quyết thấu đáo. Với nhận thức đó, cần thống nhất một số quan điểm cơ bản trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực đất đai, lao động và vốn như sau:
* Sử dụng quỹ đất ở nông thôn
Thứ nhất, đất nông nghiệp là tài sản quốc gia quý và đặc biệt, ngày càng khan hiếm. Vì vậy, trong những năm tới, việc xây dựng chính sách sử dụng từng đơn vị diện tích đất phải đòi hỏi ba yêu cầu song song, đó là:
- Tạo ra nhiều giá trị kinh tế cho xã hội nói chung;
- Đáp ứng cao nhất lợi ích riêng của người sử dụng;
- Không làm suy thoái, cạn kiệt các chất dinh dưỡng cần thiết đã có trong đất, đồng thời phải có biện pháp làm tăng độ phì của đất.
Thứ hai, trách nhiệm đối với việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai ở nông thôn thuộc về cả Nhà nước (cơ quan quản lý đất thuộc chính quyền các cấp); các doanh nghiệp và từng người dân tham gia sử dụng đất. Vì vậy, muô nước đạt được các yêu cầu trên, cách làm tốt nhất là phải luật hóa tất cả những vấn đề liên quan đến quá trình khai thác và sử dụng đất, kể cả đối với số diện tích đang sử dụng và số diện tích sẽ được đưa vào sử dụng.
Trách nhiệm của Nhà nước là phải xác lập và kiểm soát việc thực hiện các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để đạt tới các mục tiêu phát triển do chính Nhà nước đề ra cho từng giai đoạn phát triển. Quy hoách và kế hoạch sử dụng đất vào từng mục tiêu phát triển phải được xây dựng trên quy mô cả nước và cụ thể hóa tới từng tỉnh, huyện và xã. Trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phải làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp chính quyền đối với việc thực hiện những chỉ báo đã được ghi rõ trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng.
Theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để các tổ chức, doanh nghiệp, hộ gia đình trực tiếp khai thác, sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất phải có nghĩa vụ thực hiện tốt những quy định, những ràng buộc đã được nghi rõ trong quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở từng địa phương. Phải xác định rõ ràng rằng việc chuyển đổi hướng sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp (từ trồng cây này sang trồng cây khác, sang chăn nuôi, hoặc thả thủy sản...) đều thuộc quyền tự chủ của người đang sử dụng đất, nhưng Nhà nước sẽ nắm quy mô của chuyển đổi để tạo vùng hàng hóa lớn và tập trung. Cần phải có những quy định ràng buộc về vấn đề này, nếu vi phạm những quy định ràng buộc đó thì cá nhân hoặc tổ chức vi phạm sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Nếu cơ quan nhà nước các cấp để xảy ra tình trạng vi phạm ràng buộc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ ba, do tính khan hiếm của nguồn lực nên chính sách xác định các chủ sử dụng đối với từng diện tích đất phải dần từng bước chuyển mạnh sang nguyên tắc thị trường, nghĩa là phải coi chính sách đất đai ở nông thôn là một chính sách kinh tế. Mục tiêu cao nhất của chính sách này là vì sự phát triển kinh tế nông thôn, tuyệt nhiên không thể coi chính sách đất đai là một chính sách phúc lợi xã hội. Như vậy, việc phân bổ đất ruộng, mặt nước, đất vườn,d dất xây dựng ở nông thôn... mang tính bình quân như trong những năm qua phải dần được chuyển sang nguyên tắc đấu thầu để lựa chọn chủ sử dụng có hiểu biết, có khả năng tạo ra thu nhập cao nhất, đồng thời biết cách bảo vệ, phục hồi độ màu mỡ của đất trong sử dụng. Tiến tới Nhà nước không giao hoặc cho thuê đất đối với các chủ sử dụng không có khả năng làm nông nghiệp, không có ý thức bảo vệ đất. Những người làm nông nghiệp nhưng không đủ khả năng quản lý đất được tạo điều kiện tham gia sản xuất với các chủ có khả năng quản lý đất.
Thứ tư, chính sách đối với người sử dụng đất phải xác định rõ ràng về quyền hạn trong quá trình sử dụng, đặc biệt phải chú trọng các quyền về: được chủ động quyết định lựa chọn đầu tư vào sản xuất có hiệu quả cao nhất, phù hợp năng lực quản lý và hướng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyền về chuyển giao giá trị đã đầu tư cho các chủ sử dụng khác khi không còn khả năng tiếp tục đầu tư. Trách nhiệm của người sử dụng đất phải được thể chế hóa thành các chế tài để xử lý khi xảy ra tình trạng vi phạm quy định.
Thứ năm, thu hồi đất trong các trường hợp vi phạm quy định về sử dụng đất đã được thể chế hóa phải được xem như một giải pháp quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng có hiệu quả đất trong nông nghiệp và nông thôn. Nhà nước thực hiện giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất ở từng địa phương, xử lý kịp thời và triệt để những trường hợp vi phạm quy định về sử dụng đất, trong đó có biện pháp thu hồi đất.
* Sử dụng nguồn lực lao động nông thôn
Để khắc phục những yếu kém hiện nay của nguồn lực lao động nông thôn, nhanh chóng đáp ứng được những yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, những năm tới cần thống nhất những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định rõ phát triển chất lượng nguồn lực lao động nông thôn chính là tiền đề để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động nông thôn.
Để có nguồn lực lao động đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động hiện tại, cũng như đối với lực lượng lao động tương lai. Không thể tự nhiên có được nguồn lực này.
Quá trình đào tạo lao động cho nông thôn chính là một quá trình đầu tư dài hạn. Thiếu đầu tư, hoặc đầu tư không đầy đủ, đầu tư không đúng vào đào tạo nguồn lực lao động sẽ không thể có được nguồn lực lao động tốt, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, phải làm cho người dân nông thôn hiểu được yêu cầu thay đổi chất lượng nguồn lao động hiện tại. Nhà nước cần thông tin đầy đu tới người lao động nông thôn về những đòi hỏi, yêu cầu hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào hệ thống kinh tế thế giới nói chung và sản xuất nông nghiệp thế giới nói riêng. Để hội nhập thành công thì lao động làm nông nghiệp, cũng như lao động làm các việc khác ở nông thôn phải có đủ sức khoẻ, có học vấn và kỹ năng làm việc tốt để không ngừng tạo ra các sản phẩm ngày càng có tính cạnh tranh cao hơn trên thương trường.
Cần tạo ra được một phong trào sâu rộng thu hút sự tham gia của cả cơ quan nghiên cứu khoa học, các doanh nghiệp, các nhà quản lý nhà nước địa phương và các hộ nông dân về học tập, tìm hiểu, trao đổi kiến thức mới trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn, đó là công việc bức xúc cần tiến hành ngay. Chỉ khi đó mới có được sự thay đổi mạnh mẽ về chất của nguồn lực lao động ở nông thôn.
Đầu tư vào hoạt động truyền thông về hội nhập kinh tế cho người lao động nông thôn là khoản đầu tư dài hạn và phải được làm thường xuyên hàng năm theo yêu cầu của phát triển sản xuất.
Thứ ba, nâng cao năng lực cộng đồng trong phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Từng địa phương cấp huyện và xã phải tiến hành phân loại lao động hiện tại theo ngành nghề ở từng thôn, bản, làng. Đánh giá và dự kiến những lao động sẽ tiếp tục làm nông nghiệp lâu dài và những lao động không thể làm nông nghiệp lâu dài, phải chuyển sang các lĩnh vực khác phù hợp hơn. Trên cơ sở đó vừa định hướng cho chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn những năm tới, đồng thời xác định nhu cầu về đào tạo, nâng cao trình độ, khả năng mới cho lao động theo ngành nghề trong tương lai. Đây là công việc đòi hỏi các địa phương (Đảng, chính quyền, đoàn thể...) phải hợp sức, hợp lực để cùng nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cho cộng đồng. Làm cho các cộng đồng dân cư nông thôn hiểu thấu đáo ý nghĩa của việc làm này là một yêu cầu đối với công tác chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cấp trên.
Thứ tư, đào tạo nghề và nâng cao kiến thức kinh doanh theo thị trường cho người lao động nông thôn bằng nhiều kênh. Khẩn trương triển khai các biện pháp làm thử và tiến tới mở rộng các hình thức đào tạo nghề mới cho những lao động hiện đang làm nông nghiệp, nhưng lâu dài sẽ chuyển sang các lĩnh vực khác ngay tại các vùng nông thôn trong khuôn khổ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước do Chính phủ triển khai hàng năm bằng nguồn vốn ngân sách, như: chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình đánh bắt thủy sản xa bờ, chương trình xóa đói giảm nghèo...
Nghiên cứu cải tiến các chương trình giảng dạy học sinh phổ thông, bổ sung một số nội dung về đào tạo, hướng nghệp cho lao động nông thôn theo lứa tuổi và theo lớp học, cấp học hiện tại.
Xây dựng và thực hiện chính sách xã hội hóa đào tạo nghề tại các làng nghề truyền thống và làm nghề mới thông qua các nghệ nhân và những người có kinh nghiệm lâu năm trong các nghề truyền thống ở nông thôn.
Thứ năm, tiếp tục chính sách khuyến khích ai giỏi nghề gì làm nghề đó trong nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn.
Trong công tác tuyên truyền và hướng nghiệp đối với lao động nông thôn cần xác định rõ quan điểm không khuyến khích mọi nông dân hiện nay phải làm nông nghiệp lâu dài, mà phải tuyên truyền, vận động những lao động có khả năng chuyển sang nghề khác, cố gắng phát huy khả năng tự tạo nghề, tự tạo việc làm mới ngay tại nông thôn.
Khuyến khích các doanh nghiệp ở thành thị mở rộng đầu tư, tạo việc làm mới cho lao động nông thôn, tạo cơ sở phân công lại lao động nông thôn. Coi đây là một hướng chính trong chỉ đạo phát triển kinh tế của chính quyền địa phương.
Khuyến khích thành lập các loại hình doanh nghiệp và hợp tác xã bằng vốn và lao động tại chỗ, cùng với kêu gọi các doanh nghiệp bên ngoài đầu tư về nông thôn phải kết hợp song song trong công tác lãnh đạo kinh tế địa phương.
Thứ sáu, xác định rõ trách nhiệm của các cán bộ quản lý nhà nước địa phương cấp huyện, xã trong việc đào tạo nguồn nhân lực và tạo việc làm mới ở nông thôn.
Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ về tới cấp xã, mà không chỉ đến tỉnh và huyện như hiên nay, đồng thời phải tăng cường, củng cố mạnh mẽ về trình độ, trách nhiệm của cán bộ cấp cơ sở về quản lý nhà nước tại địa phương thông qua đào tạo, cấp chứng chỉ đối với cán bộ đương chức và bổ sung cán bộ trẻ đã qua đào tạo về làm việc tại xã.
Xây dựng tiêu chí về đóng góp phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm tại địa phương để đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cán bộ Đảng và chính quyền cơ sở.
Thứ bảy, tuyên truyền và chuyển giao các kiến thức phổ thông về dinh dưỡng đối với các cộng đồng nông thôn.
Thực hiện lồng ghép kiến thức dinh dưỡng vào nội dung các chương trình hỗ trợ tạo việc làm và chương trình xóa đói giảm nghèo.
Tuyên truyền các mô hình tốt trong việc sử dụng các sản phẩm nông sản tại chỗ để tăng năng lượng và dinh dưỡng cho dân cư nông thôn.
Thúc đẩy phát triển các hoạt động thể thao nông thôn nhằm phát triển văn hóa cộng đồng và nâng cao thể lực cho dân cư nông thôn.
* Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nông thôn
Thứ nhất, Nhà nước giữ vai trò chủ lực trong đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và hướng dẫn ca cơ sở nguồn vốn của khu vực tư nhân đầu tư về nông thôn.
Thực tiễn chứng minh rằng, trong nền kinh tế thị trường Nhà nước vẫn nắm vai trò chủ lực trong việc tập trung vốn đầu tư vào nông thôn và hướng các nguồn vốn khác chuyển về nông thôn. Với vị trí của mình, Nhà nước là người nắm trong tay các dòng vốn ODA ở nước ngoài cho vay phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, cùng với tăng vốn ngân sách trong nước vào mục tiêu đầu tư cho nông thôn, Nhà nước cần điều chỉnh tăng thêm vốn vay ODA vào nông thôn. Nông thôn ở đây được hiểu là huyện và xã, trước hết là các vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung, các làng nghề truyền thống và các làng nghề mới đã và đang hình thành, phát triển trong những năm vừa qua. Nhà nước cần chủ động tính toán nâng tỷ trọng đầu tư ngân sách vào nông thôn, ít nhất là hình thành cho được hệ thống kết cấu hạ tầng cơ bản như đường giao thông, thông tin, cung cấp đủ điện và nước cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn.
Thứ hai, tạo cơ chế mới hấp dẫn để huy động nhiều hơn các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), các nguồn vốn của doanh nghiệp trong nước và vốn của dân cư đầu tư vào nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Giải quyết vốn cho nông thôn phải dựa trên nhiều nguồn đa dạng và mang tính mở rộng cho nhiều thành phần cùng bỏ vốn chuyển về nông thôn thông qua các hình thức, các kênh của thị trường vốn, thị trường tín dụng sẽ được phát triển theo yêu cầu của kinh tế thị trường.
Thứ ba, hợp lý hóa và giám sát chặt chẽ việc phân bổ sử dụng nguồn vốn tập trung do Nhà nước trực tiếp đầu tư.
Thực tế cho thấy, vốn đầu tư của Nhà nước về nông thôn đã hạn chế nhưng lại không được phân bổ hợp lý và sử dụng chưa hiệu quả. Tình trạng này cần được sửa chữa triệt để trong thời gian tới thì nông nghiệp và nông thôn mới có đủ vốn để phát triển. Thực hiện công khai hóa và minh bạch hóa về vốn đầu tư vào các hạng mục, công trình xây dựng cơ bản ở nông thôn là một việc làm cần thiết.
Xem xét, đánh giá hiệu quả khai thác sử dụng các công trình đã đầu tư bằng vốn ngân sách để bố trí lại vốn cho hợ lý cũng là việc cần làm.
Thứ tư, xây dựng chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động ở nông thôn tiếp tục đầu tư doanh lâu dài, cùng Nhà nước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
Trong những năm qua chúng ta chưa chú trọng thu hút các doanh nghiệp đang hoạt động ở nông thôn bỏ một phần lợi nhuận để đầu tư vào kết cấu hạ tầng, do đó ở nhiều vùng sản xuất hàng hóa đường giao thông và các kết cấu hạ tầng khác xuống cấp nhưng không được tu bổ và nâng cấp; do các dự án đầu tư ban đầu không thiết kế vốn cho đầu tư cải tạo và nâng cấp. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này phải có cơ chế, chính sách thu hút vốn của doanh nghiệp và các chủ thể khác tham gia kinh doanh tại chỗ cùng bỏ vốn cải tạo, nâng cấp thì mới giải quyết được vấn đề.
Thứ năm, phát triển nhanh thị trường vốn và thị trường tín dụng ở nông thôn.
Những năm qua, vốn phục vụ cho các doanh nghiệp và hộ nông dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bên cạnh nguồn vốn này cũng có các dòng vốn khác như vốn chương trình, dự án theo mục tiêu của Nhà nước, vốn của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, một số ngân hàng cổ phần nông thôn... Tuy nhiên, các nguồn này rất nhỏ không đáp ứng được nhu cầu của nông dân và doanh nghiệp ở nông thôn. Vì vậy, để cung ứng đủ vốn cho nông thôn thì tất yếu phải phát triển nhanh thị trường vốn, tín dụng ngay tại các vùng nông thôn.
Kết luận
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
Trong những năm tới, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, vấn đề đặt ra là phải tính toán lại một cách tổng thể các nguồn lực hiện có và phân bổ hợp lý các nguồn lực đó vào các mục tiêu phát triển thật rõ ràng và mang tính dài hạn. Đồng thời, việc huy động thêm các nguồn lực chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa hiệu quả ở nông thôn hiện nay cũng phải được đặt ra giải quyết thấu đáo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan .doc